Đầu tiên là nói về tư
tưởng:
- Phải có hào khí, nghĩa là phải có quyết tâm luyện tập
cho đến nơi đến chốn, vững vàng, tin tưởng không vì lời bàn ra tán vào mà chán
nản bỏ dở
- Phải lạc quan, không lo sợ đang
mang bệnh mà mọi người gọi là hiểm nghèo, phải tin tưởng rằng mình sẽ thắng bệnh
do việc luyện tập Dịch Cân Kinh.
Tư thế
1) Lên không, xuống có: Trên phải không, dưới
nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt
lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn
tay ngửa ra phía sau xoè ra như cái quạt. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót
chân lưng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như
bám trên đất trơn. Đây là những qui định cụ thể của các yêu cầu cơ bản khi tập
luyện Dịch Cân Kinh.
Dựa theo yêu cầu này, khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành
trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng, thảnh thơi, đầu không nghĩ
ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập, xương cổ buông lỏng để có cảm
giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực trên buông lỏng
để phổi tự nhiên. Hai cánh tay để tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai.
Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu
môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất, bắp
chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ
nhẩm câu: "lên có, xuống không." Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau
(lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra
phía trước (xuống).
2) Trên ba dưới bảy: Là phần trên để lỏng độ
ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt
đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt.
3) Mắt nhìn thẳng: Không nghĩ ngợi gì cả,
miệng nhẩm đếm lần vẫy.
Các bước tập cụ thể như sau:
a) Đứng hai bàn chân bằng khoảng cách hai vai.
b) Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, các ngón tay xoè
thẳng, lòng bàn tay quay ra sau.
c) Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cố
để lưng, đầu và miệng bình thường.
d) Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót sát đất, bắp
chân và đùi chân căng thẳng.
e) Hai mắt chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn,
không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Đùi vế bắp
chân cứng. Thót hậu môn thật chặt và nhẩm đếm.
f) Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả hai bàn
tay lại phía trước, chú ý để nó buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức.
Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.
g) Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần
tăng lên tới 1,800 lần vẫy, (1,800 ước chừng 30 phút).
h) Phải có quyết tâm đềâu đặn tập trung vào sự luyện tập,
không nôn nóng tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không tùy tiện
bửa tập nhiều, bửa ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong luyện
tập, khó có hiệu quả.
Bắt đầu tập luyện cũng không nên làm tổn thương các
ngón chân (sau buổi tập vuốt ve các ngón chân mỗi ngón 9 lần). Nôn nóng muốn khỏi
bệnh này mà dùng nhiều sức sẽ không đem lại kết quả. Có quyết tâm nhưng phải từ
từ tiến dần mới đúng cách, mới kết quả tốt. nếu tinh thần không tập trung, tư
tưởng phân tán thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến "trên nặng, dưới
nhẹ" là sai hỏng.
Khi đã vẫy tay đến 600 lần trở lên thường có trung tiện
(đánh dắm), hắt hơi, và hai chân nhức mỏi, toát mồ hơi, mặt nóng bừng... chỉ là
hiện tượng bình thường đừng lo ngại. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của
đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống
cho hợp với vũ trụ là "thiên khinh địa trọng" (trên nhẹ dưới nặng), đấy
là qui luật sinh hợp với vũ trụ: Thiên khinh địa trọng.
Sở dĩ bệnh gan là do khí huyết tạng
gan không tốt gây nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, do đó ảnh hưởng
đến ống mật và cả tì vị. Luyện Dịch Cân Kinh có thể giải quyết được vấn đề này,
nếu sớm có trung tiện là hiệu quả tốt. Về bệnh mắt, luyện Dịch Cân Kinh là có
thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí
được cả chứng đục thủy tinh thể; trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được,
khi khí huyết không dẫn đến các bộ phận của mắt, do vậy sinh ra các bệnh tật do
mắt. Đôi mắt là bộ phận thị giác cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể.
Những phản ứng khi luyện Dịch Cân Kinh
Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng, nhưng tất
cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông
thường và còn nhiều phản ứng không kể hết được.
1)
Đau buốt.
2) Tê dại.
3) Lạnh.
4) Nóng.
5) Đầy hơi.
6) Sưng.
7) Ngứa.
8) Ứa nước giải.
9) Ra mồ hơi.
10) Cảm giác như kiến bò.
11) Giật gân, giật thịt.
12) Đầu khớp xương có tiếng lục cục.
13) Cảm giác máu chảy dồn dập.
14) Lông tóc dựng đứng.
15) Âm nang to lên.
16) Lưng đau.
17) Máy mắt, mi giật.
18) Đầu nặng.
19) Hơi thở nhiều, thở dốc.
20) Nấc.
21) Trung tiện.
22) Gót chân nhức như mưng mủ.
23) Cầu trắng dưới lưỡi.
24) Đau mỏi toàn thân.
25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân).
26) Sắc mặt biến đi.
27) Huyết áp biến đổi.
28) Đại tiện ra máu.
29) Tiểu tiện nhiều.
30) Nôn, mửa, ho.
31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra.
32) Trên đỉnh đầu mọc mụt.
33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân.
34) Chảy máu cam.
2) Tê dại.
3) Lạnh.
4) Nóng.
5) Đầy hơi.
6) Sưng.
7) Ngứa.
8) Ứa nước giải.
9) Ra mồ hơi.
10) Cảm giác như kiến bò.
11) Giật gân, giật thịt.
12) Đầu khớp xương có tiếng lục cục.
13) Cảm giác máu chảy dồn dập.
14) Lông tóc dựng đứng.
15) Âm nang to lên.
16) Lưng đau.
17) Máy mắt, mi giật.
18) Đầu nặng.
19) Hơi thở nhiều, thở dốc.
20) Nấc.
21) Trung tiện.
22) Gót chân nhức như mưng mủ.
23) Cầu trắng dưới lưỡi.
24) Đau mỏi toàn thân.
25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân).
26) Sắc mặt biến đi.
27) Huyết áp biến đổi.
28) Đại tiện ra máu.
29) Tiểu tiện nhiều.
30) Nôn, mửa, ho.
31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra.
32) Trên đỉnh đầu mọc mụt.
33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân.
34) Chảy máu cam.
Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài
cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự
xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi
bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn
bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông bình thường
không thải nổi. Như luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi
cặn bã ra ngoài nên sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập
như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn
sẽ đạt hiệu quả tốt
Luyện Dịch Cân Kinh đạt được 4 tiêu chuẩn
sau:
- Nội trung: Tức là nâng cao khí
lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông
suốt lên đến đỉnh đầu
- Tứ trưởng tố: Tức là tứ chi phối hợp
với các động tác theo đúng nguyên tắc theo luyện tập. Tứ trung tế song song với
nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng
sinh sản ngày càng mạnh
- Ngũ tam phát: Nghĩa là 5 trung tâm của
nhiệt dưới đây hoạt động mạnh hơn lúc bình thường. Đó là Bách hội: một huyệt
trên đỉnh đầu, Gio cung: huyệt ở hai bàn tay, Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn
chân. Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt Nhâm đốc
và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các
bệnh nan y mà ta không ngờ.
- Lục phủ minh: Đó là ruột non, ruột
già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục
phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị
trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường
của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.
Một số điều cần lưu ý khi luyện tập
1) Số lần vẫy tay không dưới 800 lần. Từ 800 lần lên dần
1,800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị. Người bệnh nặng có
thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân.
2) Số buổi tập: Sáng thành tâm tập mạnh - Trưa trước
khi ăn tập vừa - Tối trước khi ngủ tập nhẹ.
3) Có thể tập nhiều tùy theo bệnh trạng. Có bệnh nhân
nâng số vẫy tay tới 5, 6 ngàn lần trong một buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn
ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ
số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp.
4) Tốc độ vẫy tay. Theo nguyên tắc thì nên chậm. Bình
thường thì vẫy 1,800 lần hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một
chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng. Bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều
hơn. Bệnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá
làm cho tim đập nhanh mau mệt, mà chậm quá thì khơng đạt tới mục đích. Vì luyện
tập là cần có mạch máu lưu thông.
5) Khi vẫy tay dùng sức nhiều hay ít (nặng hay nhẹ): Vẫy
tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao khích biệt. Đây là môn
thể dục mềm dẻo, đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ
quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển
động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà
chính yếu là chuyển động hai bắp vai. Bệnh phong thấp thì dùng sức ở mức nhẹ và
vẫy tay chậm. Nói tóm lại, phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các
triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến
chuyển trong cơ thể, nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự
mình suy nghĩ rồi quyết định cách cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm
thấy thoải mái, dễ chịu là đúng và tốt nhất. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ
ích (ích lợi cho cơ thể), động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho
cơ thể (tức bệnh tật). Lý luận này đang được nghiên cứu.
6) Khi vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, khi trả
tay về phía trước thuộc về quán tính còn chừng 5 phần.
7) Đếm số lần vẫy tay : Đếm không phải để nhớ mà có
tác dụng làm cho đầu óc bình tỉnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và
không nghĩ ngợi lung tung. Chân Âm được bồi dưỡng.
8) Hoàn cảnh khi luyện tập (nơi chốn): Không có khác
biệt, ở nơi đâu cũng tập được, dĩ nhiên nơi nào có không khí trong lành và yên
tỉnh vẫn tốt hơn.
9) Trước và sau khi tập: Trước khi tập, đứng bình tỉnh
cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tỉnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm
lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn khí công.
Sau khi tập cũng phải bình tỉnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đấu ngón chân đủ 9 lần.
Người không đủ bình tỉnh nên cần chú ý đến điểm này.
10) Luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép: Sau khi tập thấy
ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thể điều hòa, mắt sáng, nước giải ứa ra nhiều, đại
tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là
đã luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép. Sau khi tập, đại đa số thấy có phản ứng
nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có
thích hợp với người tập hay không.
11) Khi tập cần chú ý đến các điểm sau đây: - Nửa thân
trên buông lỏng (thượng hư) - Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực) - Khi
tay trả lại phía trước, không dùng sức (nhẹ) - Tay vẫy về phía sau dùng sức (nặng,
mạnh) - Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay - Tâp ngày 3 buổi, kiên quyết tự chữa
bệnh cho mình.
12) Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập
luyện: Hết lòng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhất định, tập
thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất
định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ
tập thì nhất định không kết quả.
13) Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể sinh bệnh
do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hạn
hữu không tới 1%.
14) Khi tập phải tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn
mùa đông.
Tóm lại, cần lưu tâm vào những điều sau:
- Khi tập, luôn luôn bám chặt các ngón chân vào
mặt đất.
- Thắt hoặc co hậu môn thật mạnh để giữ thế
"thượng thư hạ thực".
- Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1,800 lần
mới có hiệu quả.
- Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt,
cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng hãy tăng số lần vẫy tay lên.
- Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng,
tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ đẩy lùi các bệnh tật ta đang mắc phải.
- Luyện tập Dịch Cân Kinh không chỉ chữa khỏi bệnh
mà còn là một phương pháp phòng bệnh rất hữu hiệu.
Ghi Chú
Tài liệu Dịch Cân Kinh này của cụ lương y TRẦN VĂN
BÌNH, người đã phổ biến và đưa tài liệu cho Phạm Viết Hồng Lam, 43 tuổi (Giảng
viên Hội Họa trường Cao đẳng Sư Phạm Nhạc Họa) để tự chữa khỏi bệnh.
Hồng Lam bị ung thư viêm họng ở giai đoạn II, lâm vào
một tình thế bế tắc. Anh đã được cụ Bình trao tập tài liệu luyện tập Dịch Cân
Kinh này, và anh đã luyện tập để tự chữa bệnh. Điều thần diệu đã đến, sau 3
tháng luyện tập, bệnh của anh đã khỏi hẳn và sức khoẻ ngày một tăng không ngờ
(Tài liệu được trao ngày 7/2/1989, anh tập đến tháng 5/1989 thì hết bệnh).
Sau khi hết bệnh, anh Hồng Lam kể lại quá trình luyện
tập chữa bệnh của mình cho bạn bè thân thuộc nghe, đồng thời anh cũng giới thiệu
tập tài liệu này trên báo Hà-Nội Mới để chứng minh cho điều mình đã kể cũng như
để cho đồng bào cả nước cùng biết. Tài liệu này đã trích lại từ tờ báo đó.
Bài này được đăng
trên nhật báo Người Việt (USA)
lần đầu vào ngày 17 tháng 11 năm 2000. Tiếp theo, trên số báo ngày 24 tháng 2,
2001 cũng đăng thêm bài "Kinh nghiệm tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh". Bài
cũng được đăng trên trang nhà Viet-nam.org dưới dạng phông chữ động (dynamic
font).
(Nguyên
bản Việt ngữ của ông Huỳnh Bửu Khương,
đăng trên nhật báo Người
Việt ở Hoa Kỳ)
Nhân
đọc bài Ðạt Ma Dịch Cân Kinh của Bác sĩ Lê Quốc Khánh đăng trên nhật báo Người
Việt số ra ngày 17 và 18 tháng 11 năm 2000 và thấy rất vui mừng khi biết tập
Ðạt Ma Dịch Cân Kinh có thể chữa được nhiều bịnh nan y, trong đó có cả bịnh ung
thư. Do đó tôi muốn góp thêm ý kiến bằng cách nói lên kinh nghiệm bản thân về
việc tập Ðạt Ma Dịch Cân Kinh để giúp quý độc giả hiểu rõ hơn cách luyện tập và
củng cố lòng tin vào phương pháp tập luyện này.
Vào năm 1974, anh
Nguyễn Kim Tri, Thiếu tá ở Võ Phòng phủ Tổng Thống cho chúng tôi bản phóng ảnh
của quyển Ðạt Ma Dịch Cân Kinh bằng chữ Tàu và khuyên chúng tôi nên tập luyện
theo sách ấy, rất tốt cho sức khỏe, vì đây là cách luyện tập của chùa Thiếu Lâm
dành cho môn sinh luyện trước khi học võ. Sau đó chúng tôi nhờ người dịch đại ý
của quyển sách và tập luyện.
Sau bốn tháng
luyện tập, mọi người trong phòng của tôi (Khối Ðặc Biệt, Trung Tâm Phối Hợp thi
hành Hiệp Ðịnh Ba Lê, Phủ Tổng Thống) đều đạt kết quả tốt. Người nào không có
bịnh thì đều lên cân, da dẻ hồng hào thấy rõ. Người nào có bịnh thì bớt bịnh.
Ông Long, thư ký đánh máy, bị huyết áp cao, thì sau bốn tháng tập, huyết áp
xuống mức bình thường. mặc dầu ông không có uống thuốc. Lúc ấy ngày nào tôi
cũng tập 1200 cái đánh tay. (Lúc mới khởi sự tập 200, rồi sau tăng dần).
Sau tháng 4 năm
1975, suốt thời gian ở trong các trại cải tạo từ miền Nam ra tới miền Bắc, ngày
nào tôi cũng tập Dịch Cân Kinh một lần, và vẫn giữ mức 1200 cái vẫy tay. Nhờ
vậy mặc dầu ăn đói và rất ốm yếu, tôi vẫn có thể chịu được và ít bị bịnh. Anh
em nói vì tôi là “quan văn” trong ngành võ (Luật sư tòa Thượng Thẩm Sài Gòn,
Thiếu Tá) nên không có sức chịu đựng bằng các anh em khác, phần đông là Tiểu
Ðoàn trưởng tác chiến, Quận Trưởng hoặc Hạm trưởng Hải quân, cấp chỉ huy Biệt
Kích Dù, An Ninh Quân đội v.v...
Hồi mới ra Hoàng
Liên Sơn ở huyện Văn Chấn, thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ, vào tháng 7 năm 1976, mỗi
lần đi lấy gạo, tôi cùng một anh nữa khiêng lối 20 hay 25 kí lô và đi lối 7 hay
8 cây số đường rừng. Khi về gần đến trại có đèo 19 tháng 5 rất cao, thường tôi
yêu cầu anh cùng khiêng với tôi ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp.
Sau đó tôi nói với
Thầy Thuần, một Ðại Ðức, Thiếu tá Tuyên úy Phật Giáo, người ở cùng một láng và
cùng tập Dịch Cân Kinh với tôi mỗi ngày, về việc tôi qua không nổi Ðèo 19 tháng
5 rất cao. Thầy nói “Bác cứ tập lên 2000 cái cho tôi, bác sẽ qua nổi đèo ấy”.
Nghe lời Thầy Thuần, tôi tập lên đến 2200 cái đánh tay mỗi ngày.
Và lối nửa tháng
sau, khi đi lấy gạo, tôi được giao phải vác một mình 20 kí. (Vì họ cho rằng
chúng tôi ra Bắc đã một thời gian lâu rồi nên đủ sức để vác 20 kí đi xa), nặng
gấp đôi lần trước, thế mà khi qua đèo 19 tháng 5, tôi qua luôn, không phải
ngừng lại để nghỉ như trước. Tôi biết ngay là nhờ tập Dịch Cân Kinh theo lối
Thầy Thuần chỉ, nên mới đạt được kết quả ấy. Chớ việc ăn uống thì chúng tôi vẫn
bị đói dài dài. (Ở miền Bắc, trong 3 năm đầu, gia đình không được gởi thực phẩm
cho chúng tôi).
Hồi đó tôi tập nổi
2200 cái đánh tay cho mỗi lần và nhờ hàng ngày tôi phải leo núi, đồi, phải làm
việc nặng nên chân mạnh hơn lúc ở Sài Gòn. Chân phải mạnh, rắn chắc thì tập mới
được, vì suốt buổi tập mình phải đứng tấn.
Tôi còn nhớ có một
hôm chúng tôi phải khiêng một khúc cây to. Anh bộ đội nói “chỉ cần mười người
khiêng cây này, anh nào yếu cho khỏi khiêng”. Tôi đưa tay lên xin khỏi khiêng
vì tôi biết là tôi yếu nhất trong các anh em. Ðồng thời có một anh nữa, anh
Duyệt, cũng đưa tay. Anh bộ đội ngó tôi và nói: “Anh không yếu bằng anh này”, vừa
chỉ anh Duyệt. Sau đó tôi nhìn lại thì thấy anh Duyệt mặt mày xanh xao mặc dầu
thật sự anh mạnh hơn tôi. Nhờ tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày, nên dầu ăn đói, nhưng
da tôi không xanh mét như một số anh em khác.
Tập Dịch Cân Kinh
giúp mình luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị táo bón, máu huyết được lưu
thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ chúng ta luôn được hồng hào và
bệnh tật tan biến đi.
Sau đây tôi xin nói về cách tập thế
nào cho đúng. Khi chúng tôi mới có cuốn Ðạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi
theo hình vẽ trong đó mà tập theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy
không có kết quả gì cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy. Và
khi tập đúng cách rồi thì kết quả thấy rất rõ.
Tôi xin diễn
tả tư thế và việc phải làm của một người tập
Dịch Cân
Kinh.
1. Người tập Dịch Cân
Kinh nên đi giày hay dép, không nên đi chân đất. Hai chân dang ra, khoảng cách
giữa hai ngón chân cái bằng khoảng cách của hai vai. Hai bàn chân đứng song
song với nhau. Mười ngón chân bám chặt xuống giày hay dép.
2. Gồng cứng (lên gân)
bắp chuối và bắp vế chân. Hậu môn nhíu lại và thót lên. Suốt buổi tập, hai chân
như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy
suyển. Tóm lại, đó là thế đứng tấn của người luyện võ. Nếu đã dang hai chân
đúng tầm, đã gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật chặt
xuống dép hoặc giày, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi thì ta thấy từ thắt lưng
trở xuống chân thật là chắc nịch. Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ý đến
phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế. Nếu ta không chú ý đến phần
này thì công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.
3. Ðầu như dây treo
(giống như có sợi dây treo mình lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía
trước, nhìn một điểm cao hơn mình một tí để cổ không rùng xuống.
4. Ở miệng, hai môi chạm
nhẹ vào nhau, không mím môi cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau,
đầu chót lưỡi để trên nướu răng trên (để luồng điện được lưu thông).
5. Ở mỗi bàn tay, 5 ngón
luôn dính vào nhau (chớ không phải xòe ra, sách có vẽ hình rất rõ về điểm này).
Khi đánh tay, lòng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa về phía
trước).
Ðộng tác duy nhất là
đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh
tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ, khi đánh tay ra phía sau thì hợp
thành một góc 60 độ. Tóm lại khi đánh tay ra phía sau thì đánh hết tay. Khi đưa
tay ra phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau còn lại mà
thôi. Do đó chỉ có 30 độ. Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra sau thì kể là một
cái đánh tay. Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái cho mỗi lần
tập. Nếu muốn mau có kết quả thì mỗi ngày tập hai lần vào buổi sáng và chiều.
Còn nếu có ý chí
lớn hơn nữa thì tập mỗi ngày ba lần (sáng, trưa và chiều) càng tốt. Tập ở ngoài
sân hay ở trong nhà đều được, miễn là ở nơi thoáng khí và yên tịnh. Không nên
tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức. Khi
thấy còn có thể tập được nữa mà không mệt thì nên tiếp tục tập cho đúng sức
mình.
Khi mới tập, khởi
sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập. Về sau khi thấy còn có thể tập thêm thì
tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350, v.v...Hồi tôi mới tập, một thời gian ngắn
sau là tôi đã lên tới 1200 cái đánh tay cho mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó
còn trẻ nên tôi đánh rất nhanh và mỗi ngày tôi chỉ tập có một lần. Sau khi tập
xong, ta thấy khát nước (thì nên uống nước ngay), đó là tập vừa sức. Sau khi
tập, tôi thường đi chậm bằng cách giở chân lên cao, vừa co dãn hai cánh tay. Có
người mới khởi sự đã tập trên 1000 cái thì mặt bị nổi mụn ngay. Nếu tập đúng
cách, tôi thấy không có phản ứng gì cả, mà càng ngày ta càng thấy khỏe ra.
Mình tập được
nhiều hay ít là do mình có thể đứng tấn được bao lâu, chớ không phải ai muốn
tập bao nhiêu lần cũng được. Còn nếu đánh tay để đếm số lần cho thật nhiều mà
không gồng lên cho hai chân thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên thì sẽ
không đạt được kết quả mong muốn. Về tốc độ đánh tay thì sách nói đánh tay
nhanh như người đi đánh đồng xa. Ðánh tay càng nhanh thì máu huyết lưu thông
càng mạnh trong thời gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bịnh tật. Sách nói muốn tập
để trị bịnh thì nên tập từ 2000 đến 3000 cái đánh tay mỗi ngày trong vòng lối
30 phút.
Sau
đây là hai nguyên tắc quan trọng cần phải áp dụng trong lúc tập
Thượng tam hạ
thất: Nếu trong thời gian tập, mình dùng mười phần sức lực thì từ thắt lưng
trở xuống mình dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ý đến việc gồng cứng (lên
gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên. Từ thắt lưng trở lên, mình dùng 3
phần sức lực. Ðó gọi là thượng tam hạ thất, thượng hư hạ thực. Trên ba dưới bảy
hay trên hư dưới thực. Trong việc đánh tay cũng thế, khi đưa tay ra phía sau
thì dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước thì chỉ dùng có 3 phần. Trước 3 sau 7 hay
trước hư sau thực. Ðánh tay ra phía sau mới thực là cần thiết và phải đánh cho
hết tay.
Tâm bình khí
tịnh: Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều gì (điều này hơi
khó), ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Ðó là tâm bình. Còn khí tịnh là
trong thời gian tập ta thở bình thường, chớ không phải thở theo nhịp tay. Có
một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Võ Ðang. Nhưng phái Thiếu
Lâm Tự thì không thở theo nhịp tay. Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở
theo nhịp tay, còn thầy Thuần thở theo nhịp tay. Nhưng cả hai chúng tôi đều đạt
được kết quả tốt.
Sau cùng tôi
xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập:
Nếu đánh tay nhanh mà ta
thấy tê mười đầu ngón tay thì đó vì là ta không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc
là vì ta để hở mười ngón tay.(Bàn tay năm ngón phải để dính với nhau, không
được hở, điều này trong sách có hình vẽ rõ lắm).
Nếu lúc tập mà ta
thấy đầu hơi nặng là vì cổ ta không thẳng, đầu không như dây treo. Luồng điện
thay vì đi xuống lại đi ngược chiều lên đầu. Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi
cũng ra sân tập và đeo bao tay vì trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở
lên là tôi thấy ấm người, khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay tôi nghe
như có hai luồng điện chạy xuống hai chân vậy. Bây giờ đã lớn tuổi, tôi chỉ tập
nổi tối đa trên dưới 800 cái đánh tay mỗi lần mà thôi.
Thêm vào đó ngày
nào tôi cũng đi bộ ít nhất nửa giờ và tôi thấy rất tốt cho sức khỏe, rất tốt
cho việc tập Dịch Cân Kinh. Trong tất cả các môn tôi đã tập (hồi ở Việt Nam, tôi tập dưỡng
sinh trong vườn Tao Ðàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Ðạt Ma Tổ Sư là
hữu hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều đặn
thì mới có kết quả.
DỊCH CÂN KINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét