Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

Bàn Thờ gia tiên và những điều cần biết



Thiên “vi chính” sách Luận Ngữ có viết “sinh, sự chi dĩ lễ; Tử, táng chi dĩ lễ; Tế, chi dĩ lễ” có nghĩa lã: Khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì theo lễ mà an táng, khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ. Từ ngàn xưa, người dân Việt ta vẫn luôn coi trọng Hiếu Lễ, chẳng thế mà cổ nhân đã đúc kết “tứ thời xuân tại thủ, bách hạnh hiếu vi tiên”(bốn mùa xuân ở đầu, trăm đức hạnh thì hiếu là trước nhất). Việc Hiếu lễ thể hiện việc cung dưỡng bố mẹ lúc tại thế và lại càng nghiêm cẩn hơn lúc họ đã khuất “sự tử như sự sinh” vậy. Còn Sách Kinh Lễ lại nói rõ: “Anh Vũ năng ngôn bất li phi điểu, tinh tinh năng ngôn bất li cầm thú. Kim nhân nhi vô lễ tuy năng ngôn bất diệc cầm thú chi tâm hồ. Phù duy cầm thú vô lễ cố phụ tử tụ ưu. Thị cố thánh nhân tác, vi lễ dĩ giáo nhân, sử nhân dĩ hữu lễ, tri tự biệt ư cầm thú” có nghĩa là: Chim Anh vũ biết nói cũng không vượt khỏi loài chim, con Tinh tinh  tuy biết nói nhưng cũng vẫn là loài cầm thú. Nay người mà vô lễ tuy biết nói mà chẳng cũng có tâm như cầm thú chăng?. Phàm cầm thú vô lễ nên cha con sống thành bầy đàn tạp giao không trên dưới lễ nghĩa. Vì thế nên thánh nhân đặt ra chuẩn mực làm ra lễ để dạy người. Khiến mọi người có lễ, biết tự phân biệt mình với cầm thú. Quả thật vậy, phàm là người thì phải biết lễ và hành theo lễ vậy. Sự tử như sự sinh, biết là vậy nhưng hiện nay có nhiều người chưa hẳn đã hiểu thờ người đã khuất như thế nào cho đúng lễ. Với đạo lý uống nước nhớ nguồn nên
thờ cúng tổ tiên thành cẩn là xuất phát từ lòng hiếu kính nhớ ân thâm nghĩa trọng, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người ngay từ lúc còn thơ bé:
Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn,
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.
Người ta nguồn gốc từ đâu?
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết muốn đề cập đến vấn đề này, vấn đề thờ cúng tiền nhân đã khuất, hay nói cụ thể hơn là những vấn đề liên quan đến bàn thờ gia tiên.
Tài liệu nói đến vấn đề này cũng khá nhiều, có thâm viễn và cũng có sơ sài máy móc thiếu hiểu biết. Người viết muốn mang cái sở độc, sở kiến, sở văn của mình để tổng hợp lại và kiến giải thêm một số vấn đề xung quanh bàn thờ gia tiên. Với hai phạm trù cụ thể là  vật thể và phi vật thể.
Vấn đề là phải thờ phụng như thế nào và cách bài trí ra sao và tại sao lại có quan niệm này.
Trước hết ta tìm hiểu về bàn thờ và những đồ vật bài trí thờ trên bàn thờ:
Quan trọng nhất của bàn thờ là bát hương. Nó được ví như ngôi nhà để các cụ trong gia đình đi về vậy. Bát hương trên bàn thờ có nhiều cách đặt và thờ khác nhau, nhưng theo cổ lễ thì bát hương trên ban thờ thường ứng với các số lẻ. Bát hương tối kỵ dùng màu vàng thờ gia tiên vì màu vàng là màu hoàng đế chỉ dành thờ quân, thần hoặc các vị thời trước có tước vị trong hoàng tộc. Trong bát hương nên dùng tro sạch đốt từ rơm rạ thơm phủ đầy lòng bát hương. Quan trọng nhất trong bát hương là cốt bát hương: nó gồm một túi giấy nhỏ có ghi tên tuổi, năm mất, nơi mất và những câu thần chú, chỉ ngũ sắc được thầy pháp thụ lý vào và coi như sổ đỏ của người trần giới vậy.
Rồi đến thần chủ (cũng gọi là bài vị) trong nhà thờ đại tông cũng như nhà thờ tư chi là “bách thế bất dao chi chủ” nghĩa là bất di bất dịch với tính cách vĩnh cửu. Bài vị bao giờ cũng làm bằng gỗ bạch đàn trắng viết chữ lên thì rất dễ trông, lại thơm được coi là tôn quý, thích hợp với việc thờ phụng. Không có gỗ bạch đàn thì dùng gỗ cây đại hay cây táo, mít…ngày nay chẳng hiểu được vì lí do gì những thứ này không đắt không quý mà chẳng bền hơn gỗ mít, gỗ vàng tâm là hai thứ gỗ chuyên dùng làm đồ thờ (tượng Phật, Thần bao giờ cũng tạc bằng gỗ mít, vàng tâm, bền hơn tất cả các thứ gỗ khác để sơn). Tại các nhà thờ tư gia hay các bàn thờ mỗi gia đình ít khi có thờ thần chủ, chỉ những nhà có quan tước khoa bảng, nề nếp hay những nhà hào trưởng giàu có mới thờ thần chủ. Vì theo đúng cổ lễ thì thờ thần chủ phải theo lễ nghi phiền phức: phải làm nhà trạm bên cạnh huyệt, mời quan đến đấy đề chủ trước khi hạ huyệt chôn cất. Tục lệ chuộng việc mời quan to, nhất là có chân khoa bảng, đến đề chủ và một vị quan kém phẩm trật đến phủng chủ, nghĩa là bưng thần chủ đặt lên linh xa. Phải tổ chức đám rước quan cho nghi vệ, xếp đặt nơi hành lễ có quy củ, tiếp đãi quan khách trọng thể, sau khi đã tiễn đưa quan về còn phải đem lễ vật và tiền tạ ơn.
Phần nhiều nhà, thờ gia tiên, có cỗ kỷ để trong cùng. Kỷ là cái ghế ngồi, tượng trưng cho sự hiển hiện, ngự giám của người đã khuất, chiếc kỷ nhỏ, cao độ 3 phân, dài 50 phân, rộng 25 phân. Đặt ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm cầm lên trên chiếc kỷ nhỏ này. Khi mở nắp đài ra nắp kê xuống dưới, đài đặt lên trên. Đài làm bằng gỗ được tiện rỗng dưới để khi đặt lên trên nắp đài, đài sẽ ăn khớp với nắp. Ba đài này dùng đựng chén rượu nhỏ lúc cúng giỗ, còn ngày thường đài được đậy nắp để tránh bụi bặm, kỷ và khám nhà thường dân cũng như các đồ thờ cúng khác không được chạm vẽ rồng hay tứ linh mà chỉ chạm vẽ hình tượng biến hóa con vật ấy.
Bàn thờ kê kỷ và bày cỗ cúng cũng không được sơn son mà chỉ sơn then hay cánh gián thếp chỉ bạc, trừ hương án cao ở mặt tiền được sơn son thếp bạc thếp vàng
Những gia đình giàu sang thì đồ thờ bày rộng hết cả gian giữa: trong cùng là bàn cao chừng một thước 20 phân trên để khám gian không thờ bài vị thì trong khám để một cỗ ỷ trên bệ khám phía ngoài cánh cửa khám để hộp đựng bằng sắc của tiền nhân.
Phía trước kê một sập tôn cao chừng 75 phân (cao hơn sập ngồi thường), trên mặt sập phía trong để một khay đài, phía trước để hai mâm xà mặt 80 x 60 phân, một mâm để bày cỗ (đồ mặn), một mâm để xôi chè (đồ ngọt).
Trên mặt sập hai góc ngoài để hai bình sứ cao 60, 70 phân, cắm hoa. Bên ngoài cùng là chiếc hương án cao gần ngang vai, ngắn hơn sập, đứng ngoài trông thấy đủ rõ cả hai bình sứ.
Trên giữa hương án là bát hương công đồng, phía sau là chiếc mâm bồng để bày ngũ quả hoặc chiếc tam sơn để nước và hoa.
Hai bên bát hương là hai chiếc đài lớn để cơi trầu và nậm rượu. Phía ngoài đằng trước để bộ đồ tam sự hay ngũ sự, hay thất sự bằng đồng; tam sự là một cái đỉnh và hai cây cắm nến, ngũ sự thì thêm hai cây để đĩa dầu thắp đèn, thất sự thì thêm một ống hạp hương để đựng trầm với một ống cắm đôi đũa và một dụng cụ đều bằng đồng để đốt trầm. Hai cây đèn bộ đồ thất sự để hai góc trong trên hương án.
Giá đèn nến: thường bằng đồng hoặc gỗ, tốt nhất là đồng. Cây vàng khối: là vàng mã có đủ 5 màu dành cho bàn thờ gia tiên nên dùng màu xanh, đỏ, mua về bọc băng dính lại cẩn thận (băng dính trắng để thờ được lâu) và cây đặt bên trái bát hương (tính theo hướng bàn thờ) phải cao hơn cây bên phải vì: Tả Thanh Long - Hữu bạch Hổ - có câu ca rằng: Thà cho Long cao ngàn trượng chứ không để hổ ngẩng cao đầu.
Lọ lộc bình: Thường thờ 1 lọ để cắm hoa vào ngày mùng 1 và rằm, ngày thường để không, nên xưa gọi là Độc bình. Nay người hiện đại mua 2 lọ thờ đối xứng là không đúng, 02 lọ mua chỉ để chơi trong nhà ko được đặt lên ban thờ. Lọ lộc bình  thường đặt bên tay trái - hướng đông - theo quan niệm: đông bình tây quả.
Khay cốc đựng nước thờ: nước thanh tịnh được thay vào mỗi lần thắp hương: nén nhang chén nước.
Lọ đựng hương: đặt bên phải bàn thờ, làm bằng gốm...
Tùy theo kinh tế của gia chủ mà có những vật thờ khác nhau nhưng nhất thiết trên ban thờ phải đảm bảo 05 yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
Giá nến tượng trưng cho kim.

Bàn thờ, ngai hoặc giá nến, bài vị tượng trưng cho mộc
Rượu, chai nước, chén nước thờ tượng trưng cho thủy.
Ngọn đèn dầu hoặc nến thờ trên ban thờ và là hương khi thắp lên tượng trưng cho hỏa.

Còn bát hương làm từ đất sét nung lên, hay sành sứ có nghĩa là thổ.
          Kỷ, khám, hộp sắc, khay đài, mâm xà, hương án, hoành phi câu đối... đều làm bằng gỗ vàng tâm hay gỗ mít. Hai thứ gỗ vàng tâm hay gỗ mít thích hợp với sơn ta lại có hương thơm khá giống hương trầm.

Kích thước bàn thờ:
Bàn thờ không phải thích đặt kích thước bao nhiêu thì đặt mà phải tùy vào gia chủ định chọn chữ gì để đặt cho bàn thờ nhà mình, nhưng phải theo sách xưa là kích thước mặt bàn thờ và vị trí đáy bàn thờ xuống đến đất phải theo kích thước Lỗ Ban. Trên thước Lỗ Ban có các kích thước rộng hẹp khác nhau tương ứng với những cung chữ trên đó như: Linh, sinh khí, phúc, an ấm hay họa hại, ngũ quỷ, lục sát...tất nhiên phải chọn cung cát như. Phúc lộc, gia đinh, tài vượng, sinh khí, thiên y thì con cháu sẽ hưởng
Về vị trí đặt bàn thờ:
Với người Việt, trong mỗi khuôn viên bao giờ cũng có một ngôi nhà chính dùng vào việc quan trọng nhất là thờ phụng, chính phía trong của gian giữa bao giờ cũng được dành làm nơi thờ, đây là trung tâm của nội thất, chỗ trang trọng nhất, các sinh hoạt khác có diễn ra ở gian bên cũng đều hướng về đấy. Bàn thờ Tổ tiên của người Việt cũng đa phần hướng Nam, hàm ý con cháu tôn vinh Tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ (Bậc thánh nhân ngồi ngoảnh mặt hướng Nam mà nghe thiên hạ tâu bày), và theo đạo Phật thì hướng nam là nơi của Bát Nhã, tức là trí tuệ, hướng của sự sáng tạo, của sinh lực tràn trề, đầy dương khí. Tuy nhiên, cũng có quan điểm đặt bàn thờ hướng tây vì cho rằng hướng này hợp với sự đối đãi của âm dương, nên yên ổn và phát triển, nghĩa là vị thần được an tọa . Nhưng trong thời điểm hiện nay, cũng tùy theo vị trí ngôi nhà, tuổi gia chủ mà ta có thể đặt bàn thờ theo những cách khác nhau và hướng khác nhau nhưng có nguyên tắc chung là: Tả cầu tài - hữu bản mạnh tức là đặt bên trái để cầu tài và bên phải thờ bản mạnh, hiểu rộng ra là đối với các tín chủ thờ đức thần tài thì nên đặt ban thời bên trái tính theo hướng của ngôi nhà chứ không phải tính từ cửa đi vào. Cũng từ quan điểm này thì bàn thờ gia tiên không nhất thiết phải quay theo hướng nhà mà gia chủ có thể tự đặt hoặc nhờ thầy phong thủy đặt.
Nhưng phải nhất nhất theo nhưng nguyên tắc chung:
Thứ nhất: Không được lộ thiên, tức là phía trên, phía sau bàn thờ có cửa sổ hoặc cửa chính đi hoặc trên nóc bàn thờ có ống thông gió.
Thứ nữa, bàn thờ tối kị để các vật nặng như đầu dư nhà hay các vật sắc nhọn như: góc tủ, góc cánh cửa chọc thẳng vào mặt bàn thờ hoặc đầu hồi của nhà hàng xóm chĩa vào.
Phải tránh những nơi bẩn tạp như nhà tắm, nhà vệ sinh, hay giường ngủ của vợ chồng. Nếu tầng dưới đặt bàn thờ thì tầng trên cũng không được đặt bếp hoặc phòng ngủ, nhà tắm nhà vệ sinh.
          Về chất liệu gỗ làm bàn thờ:
Như đã nói qua ở trên: Bàn thờ đựơc sử dụng chủ yếu là gỗ Mít, Vàng Tâm, Thị, hay Dổi. Nhiều nhất vẫn là gỗ Mít, Vàng tâm:
Theo tiền lệ của người Việt ta từ lâu năm, được các nghệ nhân ở những làng nghề lâu đời nhất của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc mà tiêu biểu nhất là ở Hà Tây, Bắc Ninh cho rằng:
Như đã nói qua ở trên: Bàn thờ đựơc sử dụng chủ yếu là gỗ Mít, Vàng Tâm, Thị, hay Dổi. Nhiều nhất vẫn là gỗ Mít, Vàng tâm:
             Theo như Nghệ nhân Nguyễn Huy Lương ở làng nghề cổ truyền Vũ Lăng - Dân Hoà - Thanh Oai - Hà Nội kể lại truyền thuyết thì có những câu chuyện như ông Đa - bà Mít mang ý nghĩa tâm linh, nhưng trên thực tế thì cũng phải căn cứ vào tính chất gỗ của nó: gỗ Mít dễ tìm, và cây mít ở nước ta gần như vùng miền nông thôn nào cũng có trồng tương đối lớn, bàn thờ ở quê gần như gia đình nào cũng có, tất nhiên đa số dân ta vẫn khó khăn nên dùng những loại cây có sẵn lại đủ lớn để dùng. Dễ chạm khắc, lại nhẹ dễ treo hay ít cong vênh và không bị mối mọt. Mít và vàng tâm thì mùi thơm nhẹ, hương của nó cũng có phần nào đó gần mùi trầm, mùi hương nên nó cũng phù hợp với việc dùng làm bàn thờ.
Đồng quan điểm trên, anh Nguyễn Đức Thuỷ­ - chủ cơ sở một làng nghề truyền thống ở xóm Thượng - Sơn Đồng - Hoài Đức - Hà Nội cũng cho biết: theo các cụ Nghệ nhân truyền lại xưa nay thì bàn thờ thường làm bằng các loại gỗ mít, dổi, vàng tâm. Vàng tâm thì đựơc màu vàng  đẹp, mùi hương nhẹ. Còn dổi thì nhẹ nên dễ vận chuyển, dễ treo. Ưu điểm nhất vẫn là gỗ mít vì: thứ nhất gỗ mít nhiều, dễ chạm khắc, lại ít bị cong vênh trong khi độ bền có thể đên trên dưới 200 năm. Gỗ mít lại có màu vàng sang, khi để lâu có màu sẫm đỏ, gỗ có mùi thơm nhẹ, gỗ nhẹ lại mềm dẻo, có tính chất cơ lí khá ổn định, không mối mọt, ít cong vênh mà mặt gỗ lại mịn…bàn thờ cổ và đúng thường được đóng bằng gỗ sạch nguyên tấm, tránh ghép 2 mảnh làm 1 vì đây là điều tối kị..
Bên cạnh đó cũng có người làm bằng táu vì cho rằng nó có tính chắc chắn, vĩnh viễn, hay là dùng gỗ gụ nhưng vẫn không phổ biến bằng gỗ các loại gỗ dổi, vàng tâm và mít mà nhất là mít. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt từ xưa đến nay.
          Đại Đức Thích Tiến Thịnh (Trụ trì chùa Vũ Lăng - Dân Hòa- Thanh Oai - Hà Nội) cũng đưa ra những quan điểm cơ lý của những thứ gỗ phổ dụng làm bàn thờ là mít hay vàng tâm có tính bền, dẻo, gỗ lại có vân giống mây và màu vàng linh thiêng, còn thêm sơn thiếp vàng là thể hiện ánh hào quang của Đức Phật, mang tính trang nghiêm lộng lẫy. Khi nói về kích thước, Đại đức cho rằng việc chọn kích thước thì tuỳ theo không gian cũng như ý thích của từng người, có thể căn cứ vào thước lỗ ban cung cát hay không thì nó chỉ mang tính chất quan niệm mà thôi, kể cả hoa văn trên bàn thờ có thể chạm khắc tứ linh, có quan niệm dòng dõi quý tộc thì chạm trổ rồng, còn nhà dân thường thì chạm phượng thôi. Nhưng đó chỉ là quan điểm, còn thực tế người ta vẫn làm theo ý thích là nhiều vì nhiều nguyên nhân.
             Còn Nhà nghiên cứu Văn hóa Dân gian  Nguyễn Hùng Vĩ (giảng viên bộ môn văn học Dân gian trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội), người đã nhiều năm nghiên cứu về Văn hóa Dân gian lại kiến giải một cách sâu sắc và khoa học hơn: ngoài những vấn đề về tính cơ lí của gỗ trên, nhà nghiên cứu còn cho biết thêm về nguyên do mang tính chất phi vật thể.
 “Cùng với vàng tâm, mít có màu vàng, là màu của nhà Phật, nên được các nhà Phật dung tạc tượng, cũng như nhà phong thuỷ dùng cho những đồ vật linh thiêng, trang nghiêm như bàn thờ. Tiếng Phạn Balamật, viết giản ước chữ Mật đọc là Mít, cụ Lê Quý Đôn cũng đã từng nói đến vấn đề này trong một số tác phẩm của mình. Cây mít vốn có nguồn gốc từ Ấn Độ, theo các nhà sư trong quá trính truyền giáo, hay việc có thể dùng toàn phần cây mít như hạt làm tinh bột, múi chin thay đường, quả non thay rau ăn chay được, than dùng làm  mõ ống vì ít nứt, tiếng vang ấm.
Bên cạnh đó cũng có người làm bằng táu vì cho rằng nó có tính chắc chắn, vĩnh viễn, hay là dùng gỗ gụ nhưng vẫn không phổ biến bằng gỗ các loại gỗ dổi, vàng tâm và mít mà nhất là mít. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt từ xưa đến nay…”
Hiện nay, do nhu cầu thị trường cũng như khả năng tài chính mà vấn đề chất liệu gỗ cũng như chất liệu màu sắc sơn son càng đơn giản, càng tiết kiệm càng tốt. Chẳng hạn như gỗ dùng gỗ dổi hay gỗ xoan, hay tận dụng gỗ tấm rời để ghép lại thành bàn thờ dù biết rằng đó là kiêng kị.  Sơn có thể dùng sơn ta, sơn kém chất lượng..
Đối với những ngôi nhà lớn bàn thờ thường xây rồi lát bằng gạch hoặc ốp đá nhưng bàn thờ cổ và đúng thường được đóng bằng gỗ sạch nguyên tấm, tránh ghép 2 mảnh làm 1 vì đây là điều tối kị..
Bàn thờ gia tiên hay bất kì bàn thờ nào cũng vậy tùy những điều kiện và thời kì khác nhau thì giá trị vật chất của những vật thờ khác nhau nhưng một bàn thờ đúng luôn phải tuân thủ những quy định trên. Đó là một bộ phận trong không gian gia đình, nó tham gia vào nội thất với tính chất trang nghiêm, tôn kính và thẩm mỹ. Mỗi gia đình tuỳ không gian cho phép, tuỳ tương quan với tiện nghi sinh hoạt khác có thể làm những bàn thờ thích hợp và đồ tế khí phù hợp, làm sao cái đẹp ở đây phải đảm bảo văn hóa cả chiều sâu tâm linh và mặt bằng mỹ thuật.
Bàn thờ ấy luôn gợi lên một chiều sâu tâm linh “cây có gốc, nước có nguồn” vừa nhân bản vừa vun đắp truyền thống, đồng thời là niềm tự hào của gia chủ về tổ tiên và về cách dạy con cháu.
 Th.s Hán Nôm Nguyễn Đức Bá biên soạn

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2012

Nghệ thuật chơi đá cảnh



Cũng như Bonsai, nghệ thuật chơi đá cảnh xuất phát từ Trung hoa, dưới triều nhà Tống. Vào năm 1117, khi Tống Huy Tông được triều cống những viên đá đẹp từ vùng núi Khánh Đá thuộc huyện Từ Châu, sau đổi tên là huyện Linh Bích, thì vị hoàng đế này bắt đầu say mê chơi đá và dân chúng cũng bắt đầu chú ý tới những viên đá đẹp.
Người chơi đá nổi tiếng nhất thời đó là Lý Dục với những "sơn nghiên" trứ danh vốn là những viên đá đẹp có hình núi non và được mài trũng ở giữa để đựng mực. Những nghiên đá đẹp này đã được chuyền từ đời vua này qua đời vua khác. Sau đó Thi hào Tô Đông Pha về nhậm chức tại Từ châu cũng ưa sưu tầm đá đẹp và những bài thơ vịnh đá cùng tiếng tăm của ông đã làm hưng khởi phong trào chơi đá cảnh. Năm 1086 Thái thú Mễ Nguyên Chương về trấn nhậm gần Linh Bích cũng là người ưa đá đẹp nên đã cùng Tô Đông Pha đặt ra những nguyên tắc đầu tiên cho việc lựa chọn đá cảnh. Theo các ông thì đá đẹp phải có đủ bốn tiêu chuẩn là Sấu, Thẩm, Lậu, Thấu
Sấu: gầy, gầy guộc nhưng phải rắn rỏi
Thẩm: gân sớ, nhăn nheo biểu hiện tính cỗ lão, tang hải thương điền"...
Lậu: lồi lõm, hang hốc biều hiện sự thâm u..
Thấu: có hang lỗ thủng xuyên qua biểu thị sự triệt thông ( thông suốt)...
Có nghĩa là viên đá phải là một trong 6 dạng sau đây:
- Thanh tú thạch: đá có hình dáng đẹp, màu sắc hài hòa, vân đá mạch lạc.
- Cô thuận thạch: trái với thanh tú thạch, đá loại này gầy guc, cằn cỗi, tượng trưng cho sự khắc khổ.
- Thần lâu thạch: đá lồi lõm, có hang hay lỗ.
- Viên hược thạch: đá tròn, nhẵn.
- Tượng hình thạch: đá có hình người, vật, đồ vật hay cảnh quan tự nhiên.
- Quái thạch: đá có hình thù kỳ dị.
Ngoài ra dựa theo màu sắc người ta còn phân biệt ra các loại đá hoàng lạp (sáp vàng), kim qua (vỏ dưa), hắc đảm (đen như mật), ngũ sắc (nhiều màu), vân thạch (có vân), quy giáp (có khứa vằn như mai rùa).
Những chi tiết sau đây cũng rất quan trọng vì làm tăng thêm giá trị của viên đá:
- Chất đá: đá càng cứng càng quý.
- Hốc đá: đá bị soi mòn thành những chỗ lồi lõm ở phía trong.
- Mắt đá: đá có những lỗ hổng xuyên thủng qua.
- Huyệt đá: hốc đá chứa một hay nhiều cục đá nhỏ ở trong (gọi là măng đá) mà ta không lấy ra được.
- Vân đá: những vân này thay đổi theo nhiều hình thể. Thể cảnh vật là khi những vân đá tạo nên một cảnh trí núi non, sông nước như bức tranh thủy mạc hay hình con nai đang nhảy dưới trăng, hình mỹ nữ đang múa, hình cành hoa hay chim chóc v.v. Thể vân là khi đá trông như những đám mây vần vũ trên trời, như ráng mặt trời lúc hoàng hôn, như sóng vỗ bờ, như nước chảy cuồn cuộn dưới sông hay chỉ là những vân như trong lòng các cây gỗ quý.
Trung hoa là một quốc gia có diện tích rộng lớn cho nên mỗi miền có một loại đá khác nhau với những đặc điểm của nó, ta có thể kể một vài loại như sau:
- Đá san hô: do san hô hay các loại sinh vật sống bám dưới nước tích tụ lại. Đá có chỗ mịn, chỗ thô, có vân. Loại này có nhiều ở vùng duyên hải tỉnh Fujan.
- Đá bọt: màu xám đậm hoặc lợt, cấu tạo bởi các chất của núi lửa và là sản phẩm của vùng Changbai trên dãy núi giáp giới Triều Tiên.
- Đá có cặn cát hay lỗ rỗng: màu xám nhạt hay nâu đỏ nhạt, có hình dáng núi hoặc những ống đan chéo nhau rất lạ lùng và đẹp mắt. Đó là sản phẩm của các vùng Anhui, Sichuan và Guangxi Zhuang.
- Đá Taihu: màu trắng nhạt, mặt nhẵn bóng và có nếp xếp nhăn nheo, có ngóc ngách như các hang động. Đá này có ở miền Gansu, Zhejiang va Anhui.
- Đá Guizhou: màu xám, bề mặt lồi lõm, có nhiều loại hình và loại vân là sản phẩm của vùng Guizhou.
- Đá Guilin: màu trắng hay vàng nhạt, có nhiều nếp nhăn và vết xếp trên mặt nên hình thù trông rất giống các núi tuyết. Đá có ở vùng Guangxi.
- Đá Yingde: màu đen, xám hoặc xanh da trời, hoặc xám với những vệt trắng. Vân đá rất rõ. Đá có các khe trông như khe núi rất đẹp. Đây là sản phẩm của vùng Shaoguan.
- Đá Lingbi: giống đá Yingde về màu sắc và hình dáng nhưng đặc biệt khi gõ vào thì phát ra âm thanh như kim khí. Đá có ở huyện Lingbi tỉnh Anhui.
- Đá vân rùa: màu xám nhạt, vân trông như mai rùa, rất đẹp. Đá có ở tỉnh Shangdong.
- Cây hóa thạch: đá màu nâu hoặc xám, có dáng dấp như cây gỗ, đá này có nhiều ở tỉnh Zhejiang.
Như trên ta đã thấy, nghệ thuật chơi đá cảnh bắt nguồn từ Trung Hoa, du nhập và phát triển mạnh tại Triều tiên rồi tới Nhật bản, sau đó lan truyền qua các nước khác. Vì đất chật, dân đông, người Nhật tìm cách thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên qua cảnh vật thu nhỏ như Bonsai và đá cảnh. Dân tộc này có biệt tài thu dụng những cái hay, cái đẹp của nước ngoài rồi thần tình biến hóa thành nghệ thuật riêng vì thế, cũng như Bonsai, họ nổi tiếng về nghệ thuật chơi đá cảnh mà ngày nay giới chuyên môn gọi là Suiseki.
Thú chơi đá cảnh bắt đầu du nhập từ Trung hoa qua Nhật bản vào khoảng năm 593-628. Lúc này đá hoàn toàn phản ảnh quan niệm thẩm mỹ của Trung hoa với dáng đá thẳng, có khi cao tới 90cm (3 feet), sần sùi, và thường được đục đẽo hoặc mài dũa cho đẹp. Người Nhật không ưa thế đá này mà thích thế đá nằm ngang. Những Thiền sư cũng đem từ Trung hoa về lối bài trí đá cảnh lẫn với hoa Iris hoặc hoa phù dung. Trong thời kỳ này quan niệm về đá cảnh cũng chịu ảnh hưởng của Đạo Lão và Đạo Khổng. Các vị Thiền sư quan niệm rằng đá là biểu tượng cho thế giới siêu hình nên đá cảnh đã dự một phần trong việc tu, thiền. Các vườn thiền (Zen) lớn nhỏ được tạo nên tại các tu viện và tại tư gia của các nhà quyền quý. Trong những vườn này người ta thường để rải rác những viên đá trên một nền đá dăm hay cát, được cào thành mô hình theo quy luật.
Lãnh Chúa Ashikaga Yoshimasa (1449-1474) là người rất yêu thích đá cảnh và đã dùng đá làm bối cảnh cho những buổi lễ trà đạo và từ đó lối bài trí đá cảnh chung với hoa của Trung hoa không còn nữa. Bắt đầu từ năm 1853 người Nhật bãi bỏ chính sách bế môn tỏa cảng, mở cửa giao thiệp với nước ngoài, nên các bộ môn nghệ thuật cũng bắt đầu bành trướng, do đó thú chơi đá cảnh cũng trở thành phổ thông và không chỉ còn là thú tiêu khiển được quyền của các hiệp sĩ và giới quý tộc nữa. Dưới triều đại Meiji (1868-1912) người ta đã phân ra 3 loại đá cảnh: Tennen Kiseki là đá có hình dáng thiên nhiên như núi đồi, sông hồ, người hay vật, Tenseki: đá để bày chung với Bonsai dùng để diễn tả các mùa, Kaseki là cây hóa thạch.
Trong triều đại này đá cảnh được những văn nhân, thi sĩ nổi tiếng đề thơ ca ngợi và nhiều nghệ nhân viết sách để giới thiệu những viên đá đắc ý của mình. Cũng trong thời gian này danh từ Suiseki ra đời. "Sui" là nước, "Seki" là đá. Đá mới được sưu tầm về gọi là đá non (shinseki). Người ta phải dùng tới kỹ thuật nuôi đá (yoseki) với 2 phương pháp: Nuôi đá khô là để đá ở trong nhà rồi thoa bằng tay và bằng khăn mềm trong nhiều năm liên tiếp cho tới khi đá nhẵn bóng. Tuyệt đối không được dùng dầu hay bất cứ một chất liệu nào khác để đánh bóng ngoài mồ hôi của con người. Nuôi đá ẩm là để đá ngoài vườn cho đá chịu ảnh hưởng của thời tiết, nắng, mưa, và năng tưới nước. Dần dà đá sẽ giữ nước (mizumochi) và trở thành sẫm màu. Với phương pháp này người ta còn để đá trong nhà trên một khay không thấm nước và tưới nước lên đá ngày 3 lần trong nhiều năm liên tiếp. Lúc đầu thì nước bốc hơi đi nhưng lâu dần đá thấm nước thành nhẵn bóng và mọc rêu. Nếu đá có dạng viễn sơn (núi nhìn từ xa) thì thường được để đất xung quanh với rêu ướt như cảnh một cánh đồng hoang dã.
Như vậy chữ Suiseki mà ngày nay người ta quen dùng để gọi các loại đá cảnh không hoàn toàn đúng khi Suiseki chỉ tất cả các loại đá cảnh dù không phải là đá được tưới nước trong nhiều năm như trước. Người Mỹ gọi là "Viewing Stone" và ta gọi là "Đá cảnh" hợp lý hơn. Đá được "nuôi" không có giá trị bằng đá đẹp tự nhiên. Thế giới biết nhiều tới Đá cảnh do cục triển lãm Bonsai và Đá cảnh được tổ chức tại Hội chợ Quốc Tế Osaka năm 1970 và từ đó tại các quốc gia trên toàn cầu bắt đầu xuất hiện những hội chơi Đá cảnh mà phần đông là cùng chung với những hội chơi Bonsai.
Người ta thường phân loại Đá cảnh theo kích thước, hình thể, chất cấu tạo, gân đá, màu đá và xuất xứ, nhưng đôi khi những yếu tố trên phối hợp lại thành một tác phẩm mỹ thuật đc đáo mà ta không thể nào xếp loại được:
Kích thước: Đá cảnh 1à do thiên nhiên đào tạo cho nên kích thước không đồng đều. Người ta phân ra làm nhiều loại tuỳ theo kích cỡ:
Loại tí hon (Mame) 2.5-15cm ( 1-6 inches)
Loại nhỏ (Kogata) 15-30 cm (6-12 inches)
Loại trung (Hyojun) 30-60 cm (12-24 inches)
Loại lớn (Ogata) 61 cm (21.2 inches) trở lên
Hình thể: Đá cảnh thường có nhiều hình thù khác nhau nhưng dạng cổ điển và có nhiều nhất là dạng núi (yamagata-ishi) với hình tam giác. Có khi đá là một trái núi đơn đc, cô phong hay độc phong (koho-seki) ; có khi là hai ngọn, song phong (soho-seki); có khi là nhiều ngọn, đa phong (rempo-seki). Đôi khi nhiều hình tam giác liên kết với nhau tạo thành một dãy núi, trường sơn (renzan-seki). Hình tam giác này có thể là một hình tam giác đều với 3 chiều bằng nhau, hoặc là hình tam giác cân với 2 chiền bằng nhau, nhưng có khi là những hình tam giác có cạnh không đồng đều, cũng giống như hình thể của núi non thật trong thiên nhiên vậy.
Nếu dưới dạng trường sơn thì ngọn phụ, nhỏ hơn, phải nằm ở phía sau ngọn chính để tạo cho ta cái ảo giác về chiều sâu của một dãy núi trùng trùng, điệp điệp, khơi dậy ở người thưởng lãm tính tò mò khiến họ phải chú tâm tìm hiểu thêm. Đỉnh chính phải ở vào khoảng 1/3 chiều ngang của dãy núi.
Đá dưới dạng viễn sơn (toyama-ishi), núi nhìn từ xa, là hình dáng đơn giản và cổ điển được người Nhật ưa thích vì họ cho là viên đá này bao gồm đầy đủ nét thẩm mỹ, tinh thần đạo giáo, cũng như triết lý cao siêu cho nên được dùng để làm trọng tâm cho việc tu thiền. Đỉnh của đá dạng này cũng phải theo quy luật là nằm ở khoảng 1/3 chiều ngang của núi và hơi nghiêng về phía trước hay phía sau chứ không ở ngay chính giữa. Sườn núi phải dốc thoai thoải từ ngọn xuống. Những ngọn khác cũng phải chếch về phía sau hay ra phía trước chứ không nằm ngang hàng với ngọn chính. Đá có dáng cận sơn (kinzan-seki), núi nhìn gần, cũng phải theo cùng quy luật trên nhưng khác ở chỗ những gân đá và những chi tiết nổi lên rõ ràng hơn, giống như khi ta đứng ngay dưới chân núi mà ngắm núi thật vậy.
Đá có dáng núi với thác nước (taki-ishi) được tạo ra bởi chất khoáng có màu lợt hơn màu đá nền núi, trông giống như nước chảy từ giữa khe núi. Nếu thác nước chảy từ giữa hai ngọn núi không cùng một chiều cao thì quý hơn là thác bắt đầu chảy thẳng từ trên ngọn xuống vì người thưởng làm sẽ tò mò tới gần để tìm hiểu xem nước bắt nguồn từ đâu; đó chính là điểm nghệ thuật và là giá trị của hòn đá. Thác nước nằm ở vị trí 1/3 chiều ngang của núi thì được coi là đẹp vì trông không nhàm chán như khi nằm ở ngay giữa ngọn núi. Dòng nước càng xuống phía dưới chân núi càng phải lớn dần như thác nước từ cao đổ xuống càng gần mặt đất càng tỏa rộng ra vậy.
Đá có dáng núi và suối (keiryu-seki) khác với đá có thác ở chỗ những vệt đá tượng trưng cho nước chạy theo chiều ngang của núi chứ không chạy theo chiều dọc và đường nước lưu thông trông có vẻ nhỏ vì lượng nước suối chảy yếu hơn lượng nước ở thác. Nếu thác hay suối chạy vòng từ đằng sau hòn đá ra đằng trước thì viên đá vô giá trị vì trái với sự thật ngoài thiên nhiên. Trường hợp những hòn núi có khe lõm mà không có chất đá khác màu tượng trưng cho nước thì gọi là Thác cạn cũng giống như một ngọn núi ngoài thiên nhiên bị thác nước xoi mòn thành khe núi và nước đã bị khô cạn trong mùa nắng ráo.
Ngoài ra ta còn thấy đá dưới những dạng khác như một mỏm núi nhô ra biển (amazadori-ishi), một cái hồ ở giữa hay ở lưng chừng núi (mizutamari-ishi), một bình nguyên (doha-ishi), một bậc đá (dan-seki), một hang động (dokutsu-ishi), một ghềnh đá ở bờ biển (iwagata-ishi), hình người, thú vật hay đồ vật như mái nhà, cái thuyền (sugara-ishi) v.v.... Những đá sa mạc không có hình thù rõ rệt thì được xếp vào loại trừu tượng (chusho-seki). Tóm lại về hình thể thì đá cảnh có muôn hình vạn trạng tùy theo óc tưởng tượng của người sưu tầm cũng như khách thưởng lãm.
- Chất cấu tạo: Những khoáng chất màu lợt như quartz hay feldspar đã cấu tạo thành suối hay thác nước. Đôi khi các chất khác với nhiều màu sắc đã tạo ra những vân đá như những vằn trên da cọp, hình hoa mà người Nhật ưa thích nhất là hoa cúc, hình lá, hình cảnh trí thiên nhiên như ráng mặt trời, tranh thủy mạc v.v.... Những đá loại này thường có nhiều ở Á châu, nhất là tại Trung hoa và chỉ có giá trị về thẩm mỹ, chỉ được coi là đá đẹp Biseki thôi chứ không được coi là Suiseki.
- Gân đá: Người ta cũng còn phân loại đá cảnh dựa theo gân đá; thường có 6 loại chính:
Itomaki: vân chạy ngang dọc trên mặt đá như cái lưới.
Jagure: vằn trên đá giống như vết bò của loài rắn trên mặt cát.
Sudachi: mặt đá có lỗ hoặc những vết lõm sâu khoảng 12mm (1/2 inch).
Shun: đá có những vết hằn, vết cắt rất sâu.
Ryugan: đá có những vệt đậm màu trên nền đá lợt.
Nashijihada: đá có nhiều đốm trên mặt như trái lê Nhật bản.
- Màu đá (shoku): Đá đậm màu có giá trị hơn mặc dù trên thực tế rất hiếm khi kiếm được một hòn đá cảnh đẹp lợt màu. Màu đá cũng phải tùy thuc hình dáng của đá vì không gì khó chịu hơn khi nhìn một hòn đá dáng cận sơn hay viễn sơn màu đỏ hay màu vàng.
- Xuất xứ: Người ta còn phân loại đá theo xuất xứ tức là vị trí đã tìm thấy đá trên thế giới như đá Ligurian Alps ở Ý, đá Murphys ở Sierra Nevada Hoa kỳ, đá Sa mạc (sabaku-ishi) ở miền tây nam Hoa kỳ, Úc châu và Phi châu. Đá tại những nơi này có chất cấu tạo đặc biệt khiến ta không thể nhầm lẫn được với các đá khá
Đặc điểm của đá cảnh là không có viên nào giống viên nào vì qua sự xoi mòn của sóng gió, nắng mưa, địa chấn, hàng ngàn, có khi hàng triệu năm, mỗi viên đá tùy theo địa chất, tùy theo hoàn cảnh thiên nhiên mà có một hình dáng, một sắc thái đặc thù, nhân loại không thể nào bắt chước được. Thường thì người ta để nguyên hình dáng sẵn có của đá để chiêm ngưỡng nhưng đôi khi cũng khéo léo đục bỏ hay mài dũa bớt những mẩu đá dư thừa để hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật. Điều cần là không để l sự sửa chữa và không làm mất vẻ tư nhiên. Những đá được mài bóng bởi máy móc không còn mấy giá trị.
Muốn sưu tầm đá cảnh ta có thể tới các ven biển hay sông ngòi, các vùng sa mạc, nhất là những nơi có vết tích của sông ngòi xưa nay đã khô cạn ở khắp nơi trên thế giới. Ở Âu châu đá đẹp có tại vùng thung lũng sông Loire, hoặc Massif Central của nước Pháp, vùng Angelsey của nước Anh, vùng sông Aare của Thụy sĩ. Ở Nam Mỹ đá đẹp có nhiều tại Brazil, Venezuela và Columbia. Ở Bắc Mỹ đá đẹp tìm thấy ở sông Columbia và ở thung lũng sông Fraiser. Ở Hoa kỳ đá đẹp có ở những vùng sa mạc Arizona, Utah và Nevada. Tại California đá đẹp có tại vùng các sông Russian, Kern, Eel, Klamath và Trinity. Vùng Jade Cove ở Monterey Bay có loại đá đen bóng gọi là Ngọc California (California jade) rất đẹp. Đá cũng có tại Garnet Hill gần Palm Spring, Lake Hill gần Death Valley, vùng núi San Benito và đặc biệt là vùng Clear Creek có loại đá màu tím rất đẹp.

Các con số có ý nghĩa gì trong cuộc sống?



SỐ 0: Vô cực
Trong thuyết Vụ nổ lớn, Vũ trụ giãn nở bắt đầu từ một điểm kì dị.
Muốn tính tuổi của Vũ trụ, ta phải lý luận để đi ngược thời gian đến điểm kì dị, lúc tuổi và bán kính của Vũ trụ là con số không (0) để làm mốc.
Đấy là lý thuyết vật lý, ai cũng biết.
Theo thuyết Âm Dương, số 0 là nguồn gốc của muôn loài, cây cối... tuợng trưng cho sự vô cùng vô tận, cho pháp lực vô biên để cải tạo thế giới.
Só 1: Thái cực
Theo lý thuyết vật lý trên, con số không nhỏ nhoi này không có ý nghĩa thực tế.
Song, dưới góc độ khoa học, số 1 lại có vai trò vô cùng to lớn. Đó là tạo ra một điểm gọi là điểm Plăng, là điểm khởi đầu ( Plăng là tên nhà vật lý người Đức).
Còn đối với lý thuyết Thần thánh phương Đông: khi thế gian hình thành, cần phải có một người đứng đầu cai quản muôn loài và chịu trách nhiệm bao bọc, che chở cho muôn loài.
Số 1 thể hiện sự độc tôn, thống trị trong mọi con số hay còn gọi dưới nhiều cái tên : Nhất trụ kình thiên (Cột chống trời ) Nhất long đăng vương ( người đứng lên làm vua)...
Số 2 : Lưỡng nghi
Khi hình thành, Con người quan niệm chia Thế gian làm hai cõi mơ hồ : đó là Trời và Đất. Thuyết ÂM - DƯƠNG được ra đời.
Thuyết này chia hai cõi thế gian là Âm và Dương, là hai mặt đối nghịch nhau như lửa với nước, mặt trăng với mặt trời, tốt với xấu... luôn vận chuyển không ngừng, cực Âm sẽ phát sinh Dương và ngược lại.
Sự chuyển biến nhanh nhạy không ngừng như thế làm cho người ta cũng phải tuỳ thế mà hành động, vận động không ngừng.
Số 2 tượng trưng cho những đặc tính sau đây : Âm - Dương tuy tính chất Phản nhưng cũng có tính khác:
- Tương ứng, Tương cầu ( tìm nhau),
- Tương giao ( gặp nhau),
- Tương thôi ( xô đẩy ),
- Tương ma (cọ xát),
- Tương thế ( thay thế )
- và Tương thành ( giúp nhau ).
Số 2 là số Xã hội, vì nó tượng trưng cho sự nhạy bén, tiến thoái phù hợp, uyển chuyển với thế giới khách quan.
Số 3 : Tam thần
Con người là sản phẩm của Vũ trụ, vì thế mà Đồng chất, Đồng biến, là tính lý của " Thiên - Nhân tương ứng, Thiên - Địa vạn vật Đồng nhất thế ". Nôm na là Vũ trụ sinh ra ba cõi, là Thiên - Địa - Nhân, theo quy luật Luân hồi vòng tròn bất tận.
Do đó, mọi biến cố xảy ra trong Vũ trụ cũng liên quan đến Con người, hình thành các ngôi sao chiếu mạng.
Số 3 là con số đại diện cho ba giới trên và đặc trưng cho sự hoà thuận giữa Con người với Thiên nhiên.
Số 4 : Tứ tượng
Cuộc sống con người có vô vàn khó khăn, tuy nhiên, số mạng mỗi người gắn với một ngôi sao nhất định.
Trên bầu trời, có vô vàn ngôi sao nhưng chỉ được chia làm 4 nhóm sao chính, đó là :
- Thanh long ( Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ , Cơ )
- Bạch hổ ( Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bính)
- Huyền vũ ( Khuê, Lâu, Vị, Tất, Chuỷ, Sâm)
- Chu tước ( Tỉnh, Quỷ, Liễu, Trương, Dực, Chẩn).
Tứ tượng này sinh ra thời tiết của 4 mùa trong một năm tương ứng Xuân - Hạ - Thu - Đông, tương ứng với 4 loài hoa đứng đầu : Tùng - Trúc - Cúc - Mai.
Số 4 tượng trưng cho khí tiết của Trời - Đất, lúc Thịnh lúc Suy, lúc Tốt lúc Xấu và mang ý nghĩa của Chết chóc.
Số 5: Ngũ phúc triều dâng
Số 5 có ý nghĩa huyền bí xuất phát từ học thuyết Ngũ Hành.
Mọi sự việc đều bắt đầu từ 5 yếu tố:
- Trời Đất có Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
- Người quân tử có Ngũ Đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
- Cuộc sống có Ngũ Phúc: Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh.
Mùa xuân mới về, ai cũng xin mình được Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh:

- Phúc: là đức độ, hạnh phúc.
- Lộc: là có nhiều điều may mắn về kinh tế, của cải vật chất.
- Thọ: là sống lâu, sống khỏe, minh mẫn.
- Khang: là sức khoẻ dồi dào.
- Ninh: là bình yên, êm ấm.
Đó là Ngũ Phúc.
Lý thuyết Âm - Dương, Ngũ Hành phát sinh, thể hiện mối tương giao giữa Con người với Trời Đất gặp Hung hoá Cát, gặp Dữ hoá Lành.
Số 5 thể hiện sự bình yên, hạnh phúc. .
Số 5 còn là số Vua, thuộc hành Thổ, màu Vàng. Là số trung tâm trong hệ số đếm. Nó là số của những người quyền quý, của sự thăng tiến và sinh sôi.

Nếu như ba số 5 đứng cùng nhau " 555 " thể hiện được ước vọng về sự hoà hợp, bình an, sinh sôi, làm việc gì cũng thuận lợi và tiến đến vị trí cao nhất.
Là con số của đời người
Số 6 : Lục khí
Con người mới sinh ra, ai cũng ngây thơ như một đứa trẻ: "Nhân chi sơ, tính bản thiện", câu này ai cũng biết. Nhưng ít ai để ý thấy rằng, cái bản thiện đó được giữ bao lâu?
Trong thuyết Âm - Dương Ngũ Hành có dạy ta 6 cách để giữ khí trong cớ thể, từ đó mới có thể kìm nén bản thân, giữ gìn đạo đức, phước lộc cho mình và người thân. 6 khí trong cơ thể là :
- Nội khí,
- Tinh khí,
- Tạng khí,
- Huyết khí,
- Vị khí,
- Âm khí.
Muốn thành công, phải nếm mùi thất bại, ấy là quy luật muôn đời.
Muốn có tâm trí thảnh thơi, sung mãn thì phải rèn luyện khí.
Người ta định ra 6 quẻ để xem xét khí của con người nhằm hạn chế tối đa sự thoát khí, mang lại bình yên cho muôn nhà, tránh xảy ra can qua.
Số 6 tượng trưng cho sự bình yên, tài lộc cho con người.
Số 7 : Thất sát ( Thất tinh sát chiếu)
Trong mỗi nhóm của Tứ tượng bao gồm 7 ngôi sao chứa sát tinh tượng trưng cho 28 ngôi sao ( Nhị thập bát tú) trên trời và 28 giống vật cầm tinh chia nhau canh giữ mỗi ngày:
- Thứ hai : Hồ, Yến, Ô, Lộc.
- Thứ 3 : Hổ, Trư, Hầu, Xà.
- Thứ 4: Báo, Dữ, Viên, Dãn .
- Thứ 5: Giao, Hải, Lang, Ngạn.
- Thứ 6: Long, Ngưu, Cẩu, Dương .
- Thứ 7: Lạc, Thử, Kê, Mã .
- Chủ nhật: Thổ, Bức, Trĩ, Ngân.
Tương ứng với NGUYỆT, HOẢ, THUỶ, MỘC, KIM , THỔ , NHẬT.
SỐ 7 tượng trưng cho vũ khí Âm sát, tạo ra những sát kiếp không thể ngăn cản được.
SỐ 7 còn gọi là số Phá Hoàng.
Số 8: Bát quái
Sinh ra từ số 4, nhưng lại vận hành ngược với số 4.
Tượng trưng cho 8 hiện tượng lớn trong Vũ trụ, cũng tạo thành 8 quẻ được sinh ra là :
- Càn ( Trời )
- Khôn ( Đất )
- Chấn ( Sấm Sét )
- Tốn ( Gió )
- Khảm ( Nước )
- Ly ( Lửa )
- Cấn ( Núi )
- Đoài ( Đồng cỏ )
Từ những quẻ này mà người ta có thể dựa vào đó mà bắt thiên nhiên phục vụ cho mình tạo nên nền kinh tế thịnh vượng.
Số 8: thể hiện sự phát triển Thịnh vượng, Bề thế, Sung túc, No ấm.
Số 9 : Cửu diệu
Bao gồm các ngôi sao vận hạn của con người.
Những ngôi sao này tượng trưng cho những tai ách của con người phải trải qua .
Và khi có sao chiếu, tức là vận hạn đang đến, thì giải sao là điều mong mỏi của con người từ xưa tới nay.
Đó là các sao : La hầu, Thổ tú, Thuỷ diệu, Thái bạch, Thái dưong, Vân hán, Kế đô, Thái âm, Mộc đức.
Tại sao gọi là Cửu diệu?
Mỗi khi vận hạn đến, những ngôi sao nhấp nháy như báo trước điều chẳng lành, để chúng ta tránh.
Phải chăng, đó là điều kì diệu của cuộc sống ?
Số 9 tượng trưng cho sự yên ổn, thái bình đến muôn đời.

Tóm lại, mỗi con số đều mang trong mình những ý nghĩa nhất định.
Chẳng thế mà trong kinh doanh hay trong cuộc sống thường ngày, số 5 – số của đại Cát đại Lợi, số của Trời Đất dung hòa lại được ưa chuộng đến vậy.
Một số ví dụ:
- " 333 " : Tam Tài
- " 168 " : nhất lộc phát
- " 86 " :  Phát lộc
- " 986 " : cửu phát lộc = mãi phát lộc
- " 863 " : phát lộc tài
- " 983 " : cửu phát tài = mãi phát tài
- " 974 " : cửu thất tử = mãi không chết
- " 19 " :  sinh mãi, một bước tới trời
- " 168 " : Nhất Lộc phát
- " 26 " : Hái lộc
- " 27 " : Dễ phất
- " 28 " : Dễ phát
- " 34 " : Tài tử
- " 36 " : Tài lộc
- " 37 " :  Ông Trời
- " 369 " : Lộ̣c mãi mãi
- " 63 " : Lộc tài
- " 68 " : Lộc phát
- " 69 " : Lộc mãi mãi
- "689 " : Lộc phát mãi mãi
- " 75 " : Dê già, dê cụ
- " 78 " : Ông địa lớn
- " 79 " : Thần tài lớn
- " 83 " : Phát tài
- " 839 " : Phát tài mãi mãi
- " 86 " : Phát lộc
- " 869 " : Phát lộ̣c mãi mãi
- " 968 " : Mãi mãi phát lộc
- " 983 " : Mãi mãi phát tài
- " 986 " : Mãi phát lộc

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

Khám phá gương bát quái



Những chiếc gương chiếu yêu gắn ở các cửa nhà thường được nhiều gia đình tin cậy để sửa nếu phong thủy chưa đạt.
Nhưng treo gương thế nào cho đúng, khỏi chữa lợn lành thành què thì không phải dễ dàng.
Gương bát quái là một tấm biển trên đó vẽ hình bát quái (8 quẻ) gồm càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn với các nét vẽ dẽ nhận biết. Càn: 3 gạch liền. Khôn: 6 gạch ngắt quãng. Khảm: ở giữ liền. Ly: ở giữa hở. Chấn: Như chiếc ống lật ngửa. Cấn: Như bát úp. Đoài: khuyết ở trên. Tốn: đứt ở dưới.
Theo gương bát quái là để sửa lại các khiếm khuyết trong phong thủy, mang ý nghĩa làm biến đổi vật chất từ môi trường chưa được phù hợp đến môi trường phù hợp hơn để phong thủy đạt đến mức hoàn thiện nhất, đạt được các điều kiện tốt nhất cho con người. Đó là sự giao hòa giữa con người với cảnh vật, giúp cho bạn thực sự thoải mái, khỏe mạnh, “hợp” với nhà mình. Gương bát quái thực sự phát huy tác dụng với những trường hợp nhà thiết kế quá nhiều góc cạnh, nhà đối diện với cột điện, nhà cao tầng, máy biến áp, cửa sổ đối diện với nhà vệ sinh, nhà bếp… giúp thay đổi khí trường, loại trừ những ảnh hưởng xấu.

Ba loại gương bát quái thường gặp và công dụng:
Gương bát quái lồi


Gương lồi giống như mai rùa, có hình cầu lồi lên, là 1 công cụ hóa giải sát khí. Có rất nhiều vật thể mang sát khí trong phong thủy có thể tác động đến nhà bạn như cột đèn, các vật thể có hình dáng nhọn sắc, con đường chạy thẳng vào nhà, cột cờ, khoảng không gian giữa 2 tòa nhà cao, biển báo giao thông, ống khói…, gương bát quái lồi sẽ hóa giải được những điều đó. Loại gương này không được để trong nhà, chỉ cho bên ngoài.
Gương bát quái lõm
Gương lồi dùng để “phân tán” thì gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt. Như trường hợp cửa chính đối diện cầu thang đi xuống, khí đất trong nhà sẽ thất tán nên treo 1 gương lõm trước cửa.
Gương bát quái phẳng
Nếu đặt trong nhà có tác dụng thu hút, thâu tóm năng lượng tốt trong phong thủy. Nếu treo ngoài cửa chính hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng phản xạ. Treo gương phẳng tại phương vị cát lợi sẽ có tác dụng thu hút khí tốt còn khi treo tại phương vị xung sát lại có tác dụng ngăn cản, hóa giải khí xấu. Loại gương này chỉ được treo bên ngoài nhà, tuyệt đối không được treo trong nhà. Tuy nhiên cũng không nên treo nhiều, mỗi hướng chỉ nên treo 1 chiếc và cả ngôi nhà không được treo quá 3 chiếc.
Theo Sức khỏe