Hàm lượng mỡ trong máu cao có thể
dẫn đến tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, hoại tử ruột... Đây không phải
là bệnh của riêng người béo. Có những người rất gầy và không ăn nhiều dầu mỡ
nhưng khi đi khám, bác sĩ vẫn cho biết là họ mắc bệnh trên.
Theo bác sĩ Lê Thanh Liêm, Phó khoa Tim mạch, Bệnh
viện Chợ Rẫy, do quy định của gene, có người ăn thực phẩm chứa nhiều
cholesterol nhưng vẫn chuyển hóa hết số mỡ này, có người dù ăn ít vẫn không
chuyển hóa hết, khiến mỡ tích tụ và đóng ở mạch máu, tạo thành các mảng xơ vữa.
Trong 4 thành phần của mỡ có hai thành phần chủ yếu
gây mỡ máu cao là tryglycerid và cholesterol. Sự mất cân bằng giữa tryglycerid
và cholesterol sẽ khiến hai thành phần này đọng lại, làm hẹp lòng mạch, cản trở
lưu thông máu. Những khối mỡ đóng này có thể vỡ ra, khiến huyết khối bám vào
mảnh vỡ và dẫn đến tắc mạch, thiếu máu nuôi các cơ quan trong cơ thể. Tình
trạng bít hẹp nếu xảy ra ở não thì gây tai biến mạch máu não, nếu ở ruột thì
gây tắc ruột, ở tim gây nhồi (thiếu) máu cơ tim và ở chi gây tắc mạch chi...
Bệnh có thể bắt đầu từ rất sớm (khoảng 20 tuổi trở
lên), diễn biến kéo dài và không có biểu hiện gì rõ ràng. Trẻ béo phì có nhiều
nguy cơ mắc bệnh này trong tương lai.
Phòng và trị bệnh
Trong chế độ ăn, nên cung cấp một lượng cholesterol
vừa phải, đủ cho cơ thể phát triển cân bằng mà không gây thừa mỡ. Nên chăm tập
luyện và làm các việc năng động để tiêu bớt lượng mỡ dư thừa, tránh việc tạo
thành những cholesterol có hại. Chế độ phòng bệnh cần được thực hiện sớm. Từ 40
tuổi trở lên, nên đi xét nghiệm mỡ máu 6 tháng một lần.
Khi bệnh đã có biểu hiện thì rất khó khỏi hẳn. Việc
điều trị chỉ làm giảm mức độ tiến triển của bệnh chứ không thể làm hàm lượng mỡ
máu trở lại bình thường. Bệnh nhân phải được theo dõi và điều trị suốt đời. Tùy
theo mức độ nặng nhẹ, bác sĩ sẽ có chỉ định theo dõi 1-2-3 tháng/lần để tránh
những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.
Vì vậy, ngay sau khi phát hiện bệnh, bệnh nhân nên
đến bác sĩ chuyên khoa tim mạch để khám và điều trị kịp thời nhằm ngăn chặn
tình trạng bệnh tiến triển nặng.
Kiểm soát cholesterol máu phòng ngừa bệnh tim mạch
Cholesterol là một loại mỡ (lipid) rất quan trọng
đối với hoạt động sống của cơ thể, đóng vai trò trung tâm xây dựng màng tế bào,
các hormon sinh dục, tái tạo vitamin D và thúc đẩy quá trình tiêu hóa. Tuy
nhiên, nếu hàm lượng cholesterol trong máu tăng quá mức sẽ tăng nguy cơ bị xơ
vữa động mạch, kèm theo đó là bệnh tăng huyết áp, bệnh mạch vành với các biến
chứng nguy hiểm như nhồi máu cơ tim, đột qụy.
Những nguy hiểm nếu cholesterol máu cao
Những người có hàm lượng cholesterol máu cao có tỷ
lệ mắc bệnh mạch vành cao hơn 2-3 lần so với người bình thường-200mg%
(mg/100ml) và thấp hơn. Nguyên nhân chủ yếu làm cholesterol trong máu tăng cao
là do ăn uống quá nhiều các thức ăn có chứa nhiều chất béo no và cholesterol như:
thịt lợn, thịt bò, sữa nguyên kem, bơ, phomát, trứng, dầu dừa, phủ tạng động
vật... Ngoài ra, việc không tham gia tập luyện thể dục thể thao thường xuyên,
hút thuốc, tuổi tác, di truyền, tình trạng thừa cân cũng là các yếu tố nguy cơ.
Trong cơ thể, ở gan, cholesterol kết hợp với
protein tạo ra hai dạng lipoprotein là LDL-lipoprotein có trọng lượng phân tử
thấp và HDL-lipoprotein có trọng lượng phân tử cao và được vận chuyển vào dòng
máu. HDL mang ít cholesterol nên nó có thể kết hợp với cholesterol tự do trong
máu và vận chuyển về gan để xử lý, vì vậy nếu hàm lượng của HDL trong máu càng
cao thì càng giảm nguy cơ mắc bệnh mạch vành. Người có hàm lượng HDL trong máu
cao hơn 60mg% là ngưỡng an toàn đối với bệnh tim mạch, thấp hơn 40mg% là có
nguy cơ mắc bệnh cao.
LDL chứa nhiều cholesterol và khởi xướng sự hình
thành các mảng xơ vữa trên thành các động mạch nói chung và các động mạch vành
tim nói riêng. Các mảng xơ vữa này gây chít hẹp hay tắc lòng mạch máu nuôi
dưỡng cơ tim, gây ra các cơn đau tim. Hàm lượng LDL càng cao thì nguy cơ mắc
bệnh mạch vành càng cao. Người ta phân loại nguy cơ bệnh mạch vành dựa vào hàm
lượng LDL trong máu như sau: thấp hơn 100mg% là ngưỡng an toàn đối với bệnh
mạch vành, 100-129mg% - giới hạn an toàn, 130-159mg%-nguy cơ, 160-189mg% - nguy
cơ cao, lớn hơn 190mg% - nguy cơ rất cao.
Mặc dù hàm lượng LDL và HDL là những chỉ số tin cậy
để dự đoán nguy cơ mắc bệnh mạch vành, nhưng xác định hàm lượng cholesterol
toàn phần trong máu rất quan trọng. Hàm lượng cholesterol toàn phần trong máu
thấp hơn 200mg% thì ít có nguy cơ mắc bệnh mạch vành, 200-239mg% - có nguy cơ
trung bình, cao hơn 240mg% - có nguy cơ cao (ở Mỹ, trên 20% dân số có hàm lượng
cholesterol toàn phần trong máu vượt quá 240mg%).
Triglicerid là một loại mỡ khác tuần hoàn trong
máu. Nếu một người có hàm lượng triglicerid và LDL trong máu cao thì sẽ có nguy
cơ tim mạch cao. Giới hạn cho phép của hàm lượng triglicerid là 150-199mg%.
Các biện pháp điều chỉnh hàm lượng cholesterol máu
Về ăn uống:
- Tránh các thức ăn có chứa chất béo và cholesterol
như bơ, thịt lợn mỡ xông khói, dầu cọ, dầu dừa; thay bằng dầu thực vật như dầu
ôliu, đậu nành, ngô. Hạn chế dùng thực phẩm có chứa vòng trans như bơ thực vật,
bim bim, bánh quy, kẹo dẻo...
- Hạn chế ăn các loại thịt, cá xuống còn 150-200g/ngày,
ăn không quá 3 quả trứng/tuần và phải ăn cách ngày. Không ăn thịt mỡ, phủ tạng
động vật, da của các loại gia cầm, thay thế bằng đạm thực vật như đậu tương...,
tăng cường ăn rau quả.
- Tránh các thức ăn nhanh như bánh hamburger, bánh
có nhân thịt băm, thịt rán, bánh gatô.
- Uống sữa đã tách bơ, hạn chế ăn phomát, kem.
Về điều chỉnh cân nặng: Nếu bạn bị thừa cân thì
phải thực hiện chế độ giảm cân để phòng ngừa bệnh mạch vành bằng việc tăng
cường tập luyện thể dục thể thao rèn sức bền và ăn giảm calo. Lợi ích của giảm
cân gồm: giảm LDL, tăng HDL, giảm huyết áp, tăng khả năng sử dụng glucoza của
các tổ chức mô, phòng ngừa bệnh tiểu đường.
Giảm cân phải từ từ, khuyến cáo giảm không quá
0,3-0,5kg/tuần. Để đạt được điều này, cần ăn giảm khoảng 250kcal/ngày và tăng
cường vận động để đốt cháy 250kcal/ngày (đi bộ 50 - 60 phút/ngày), nghĩa là
tổng số giảm 500kcal/ngày.
Về tập luyện thể dục thể thao: Rèn sức bền với các
bài tập đi bộ nhanh, chạy, đạp xe... đặc biệt hiệu quả giảm nguy cơ mắc bệnh
mạch vành và tăng cholesterol máu. Tập luyện thường xuyên có tác dụng tămg HDL,
giảm LDL máu, giảm cân, giảm huyết áp, giảm stress, củng cố xương...
Biện pháp hữu hiệu nhất để giảm hàm lượng LDL, tăng
HDL và giảm cholesterol máu toàn phần là thay đổi chế độ ăn (khuyến cáo giảm
lượng chất béo sử dụng chung, đặc biệt là giảm lượng chất béo no chứa trong mỡ
động vật) và tăng cường tập luyện thể dục thể thao thường xuyên.
Điều chỉnh hành vi: Bỏ hút thuốc, hạn chế rượu bia,
kiểm soát stress. Hút thuốc có thể làm giảm lượng HDL tới 15%.
Nếu các biện pháp trên không giúp giảm đáng kể hàm
lượng cholesterol máu, thì bác sĩ sẽ chỉ định dùng thêm thuốc (statin) giảm mỡ
máu như: lipitor, mevacor... các thuốc này có tác dụng giảm sản xuất
cholesterol ở gan. Ở những bệnh nhân có cholesterol máu cao, kết hợp tiểu
đường, huyết áp cao, bệnh mạch vành thì việc dùng loại thuốc này là rất cần
thiết để phòng ngừa các biến chứng tim mạch.
Tóm lại, cholesterol rất cần thiết cho cơ thể, tuy
nhiên để phòng ngừa bệnh tim mạch, tiểu đường, mỗi người phải biết kiểm soát
hàm lượng cholesterol của cơ thể ở mức an toàn bằng việc điều chỉnh chế độ ăn,
tập luyện rèn sức bền thường xuyên và thay đổi một số hành vi.
TS. Đặng Quốc Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét