Cách quảng cáo công suất của một sản phẩm ampli trên thị trường hiện nay quả là khá tuỳ hứng. Một bộ dàn mini rất … mini, chỉ nặng khoảng mươi cân cả loa mà công suất ra được quảng cáo hàng ngàn oát (!?). Thực chất công suất trên các bộ dàn mini được gọi là công suất nhạc đỉnh đầu ra hay PMPO (Peak Music Power Output). Trên thực tế công suất PMPO thường lớn gấp 20 đến 50 lần cống suất thực của ampli đó. Có nghĩa là một bộ dàn mini quảng cáo công suất 2000W PMPO thì công suất thực tế của nó chỉ vào khoảng 40 – 100W mà thôi.
Công suất ra thực sự của một ampli – RMS (Root Mean Squared) đuợc tính bằng điện áp trên tải loa nhân với dòng điện qua tải loa đó, ví dụ như trên hai đầu của một chiếc loa 8 ohm có điện áp xoay chiều 8V và dòng qua tải là 1A thì công suất thật sẽ là 8W. Trong thực tế, để biết công suất thật ở một mức volume nào đó, ta có thể làm như sau: dùng một voltmetre xoay chiều đo trực tiếp điện áp trên hai đầu cọc loa khi máy đang chạy và áp dụng công thức Công suất thật = U2/R
Trong đó: U là điện áp.
R là trở kháng loa.
Tất nhiên phép đo này có sai số lớn vì tín hiệu âm thanh luôn luôn thay đổi nên chỉ có tác dụng tham khảo. Muốn có giá trị chính xác, bạn cần có những thiết bị phức tạp hơn như: Máy tạo sóng âm tần, voltmetre điện tử, điện trở mẫu.
Bạn cũng nên nhớ rằng bất cứ một thiết bị tiêu thụ điện nào cũng có hiệu suất nhất định. Đối với ampli cũng vậy, tuỳ theo mạch công suất của ampli hoạt động theo chế độ nào: class A, B hay AB mà hiệu suất có thể thay đổi nhưng hiệu suất bao giờ cũng nhỏ hơn 100%. Nói cách khác, công suất của một amopli luôn luôn nhỏ hơn công suất tiêu thụ điện của nó. Vậy mà cũng có nững ampli quảng cáo công suất ra kiểu như 150W x 2 kênh trong khi công suất tiêu thụ toàn máy chỉ là 100W (công suất ra lớn gấp 3 làn công suất tiêu thụ), thật vô cùng phi lý!
CÔNG SUẤT LỚN CÓ PHẢI LÀ HAY?
Công suất của một ampli là lượng, âm thanh của một ampli như thế nào lại là chất, hai khái niệm không thể đánh đồng. Tuy nhiên, không thể phụ nhận một điều rằng các hãng chế tạo ampli thường có nhiều dòng sản phẩm để đáp ứng túi tiền của nhiều đối tượng. Theo quan niệm thiết kế của nhiểu hãng, ampli công suất càng lớn, càng đắt tiền, thì càng được chú trọng vấn đề nâng cao chất lượng trong thiết kế, điều này là hoàn toàn đúng đối với ampli bán dẫn. Nói cách khác, cùng một mẻ đẻ ra, ampli bán dẫn nào có công suất lớn hơn thường là âm thanh hay hơn.
Với ampli đèn, vấn đề không hoàn toàn như thế. Chất lượng âm thanh của một ampli đèn phụ thuộc chủ yếu vào thiết kế mạch, chất lượng bóng đèn, biến áp và các phụ kiện. Một ampli 300B công suất ra 7W có thể âm thanh quyến rũ hơn nhiều so với một ampli khổng lồ hàng mấy trăm oát. Đừng bao giờ nghĩ ampli đèn công suất lớn thì tiếng luôn hay hơn công suất nhỏ. Khi chơi ampli đèn, nếu đã có loa độ nhạy cao, bạn hãy dành tiền đầu tư vào một ampli công suất nhỏ có âm thanh hay thì tốt hơn là mua một ampli công suất lớn không cần thiết.
BẠN CÓ CẦN CÔNG SUẤT LỚN?
Công suất lớn đến bao nhiêu là vừa? Có phải công suất ampli càng lớn thì càng tốt hay không?
Phải chăng công suất là thông số kỹ thuật quan trọng nhất của một chiếc ampli? Những người nghe có kinh nghiệm cho biết: với một cặp loa 8 ohm, có độ nhạy trung bình, khoảng 90 dB và một phòng nghe rộng chùng 20 m2 thì công suất ampli cần thiết để nghe ở mức dễ chịu chỉ cần khoảng 20 – 25 W RMS là đủ và tối đa cũng chẵng vượt quá 40W (công suất thật), trừ khi bạn muốn chiếc ghế xô – pha bạn ngồi phải rung lên theo tiếng nhạc thì mới cần lớn hơn. Như vậy, thực chất chúng ta vẫn thường đầu tư vào những chiếc ampli có công suất quá dư so với yêu cầu sử dụng thông thường. Với phòng nghe có kích thước 25 – 30 m2, loa 90 dB và mức nghe to vừa phải, bạn sắm một chiếc ampli bán dẫn công suất thật 60 – 70 W là đạt yêu cầu.
NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH VIỆC LỰA CHỌN CÔNG SUẤT AMPLI
-Độ nhạy và trở kháng của loa:
Loa có độ nhạy càng cao thì chỉ cần ampli có công suất nhỏ.Ngược lại những loại loa được coi là “cứng đầu”, trở kháng thấp khoảng 4 Ohm, độ nhạy dưới 90 dB cần ampli có công suất lớn, dòng ra lớn (thường là loại nhiều sò cống suất lắp song song).
Kích cỡ và cách bố trí của phòng nghe:
Một căn phòng lớn hoặc chứa nhiều đồ đạc thường đòi hỏi công suất ampli lớn hơn căn phòng nhỏ và ít đồ đạc. Bởi âm thanh chúng ta nghe được là tổng hợp của các âm thanh đi trực tiếp từ loa và các âm phản xạ tường, trần, sàn nhà … Phòng nghe càng rộng, đồ đạc càng nhiều càng gây suy hao âm thanh phản xạ, tạo ra cảm giác nghe bé hơn phòng nhỏ.
Khoảng cách từ loa đến tai người nghe:
Nhân tố này không phụ thuộc vào kích thước của phòng nghe. nếu bạn ngồi xa loa, thậm trí trong một căn phòng nhỏ bạn vẫn phải cần công suất ampli lớn hơn.
Cường độ âm thanh bạn thường nghe:
Bạn thích loại nhạc nhẹ nhàng tình cảm hay bạn thích nghe nhac heavy rock? Nếu nhạc nhẹ bạn cần công suất nhỏ hơn, còn đối với nhạc rock, âm thanh phải đủ lớn mới làm cho các fan của dòng nhạc này “phê” được.
HIỆU SUẤT CỦA AMPLI: Ampli class A:
Có hiệu suất vào khoảng 15% – 20%, tức là tiêu thụ 100W điện chỉ đưa ra công suất ra loa tối đa là 20W, 80% năng lượng còn lại bị tiêu tán dưới dạng nhiệt nên khi chạy rất nóng. Bù lại class A có độ méo cực nhỏ và âm thanh tự nhiên nhất. Ampli class B:
Có hiệu suất vào khoảng 70 – 80%, tức là tiêu thụ 100W điện sẽ đưa ra công suất ra loa tối đa 80W, 20% năng lượng còn lại bị tiêu tán dưới dạng nhiệt nên khi chạy rất mát. Nhưng class B có độ méo lớn và âm thanh không hay nên ít được dùng trong các mạch audio cao cấp. Ampli class AB:
Có hiệu suất vào khoảng 45 – 60%, tức là tiêu thụ 100W điện sẽ đưa ra công suất ra loa tối đa được 60W. Class AB là chế độ trung gian giữa class A và class B, công suất ra lớn hơn class A và độ máo nhỏ hơn class B. Class AB hiên được dùng trong hầu hết các ampli bán trên thị trường.
Vì vậy, khi mua ampli, muốn có công suất lớn hơn, bạn nên chọn ampli nào to, nặng, có công suất tiêu thụ điện lớn thì đó mới là cơ sở để có công suất ra loa thực sự.
Theo Tạp chí Nghe Nhìn
Loa cho Home Theater
Thay vì tập trung vào phân tích thiết bị quan trọng nhất của hệ thống, chúng ta hãy nghiên cứu vấn đề quan trọng nhất khi xây dựng hệ thống, đó là tìm ra loa thích hợp với phòng, với ampli và với chính xác các loa. Công việc này chiếm nhiều công sức nhất của người chơi khi xây dựng bộ dàn; nhưng chẳng có gì mất mà không được nên phần thưởng dành cho bạn sau những vất vả ấy cũng rất xứng đáng. Hơn nữa, dàn loa còn là đối tượng mà bạn tiếp xúc thường xuyên nhất…Nói như vậy không có nghĩa vai trò của loa là quan trọng nhất trong hệ thống là có nghĩa là bạn nên dành thời gian và tiền bạc cho loa một cách thích đáng. Để tìm được loa phù hợp, tốt nhất bạn nên nghe thử loa trong chính căn phòng của mình và phải đặc biệt chú ý đến tính thống nhất giữa phòng nghe ampli và loa. Bạn nên tham khảo những người có kinh nghiệm. Những lời khuyên đó sẽ giúp bạn rất nhiều trong công việc chọn loa, nhưng quyết định cuối cùng vẫn là đôi tai của chính bạn. Bạn cần nhớ là phòng đặt bộ dàn có ảnh hưởng đến chất lượng âm thanh hơn bất cứ thiết bị nào. Trong thực tế, cùng một bộ dàn nhưng ở phòng này nghe rất hay nhưng chuyển sang phòng bên cạnh lại có thể nghe rất dở.
HỆ THỐNG LOA 5.1
Loa center (kênh trung tâm) có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống home theater bởi vì kênh này thể hiện hầu hết tất cả phần lời thoại trong phim. Loa center thường có dạng thùng nằm ngang trong đó có 2 đến 3 loa con. Kiểu thiết kế này giúp bạn đặt loa ở vị trí trên hoặc dưới tivi dễ dàng hơn. Nếu kênh trung tâm không cùng dòng hoặc cùng thương hiệu với loa trước thì bạn phải xem nó có phối hợp tốt với loa trước không. Sự hài hoà về dải âm, âm sắc, … giữa loa trung tâm và các loa sẽ giảm thiểu những trục trặc khi hệ thống phối hợp trình diễn. Nhiều người nghe có kinh nghiệm cho biết nên chọn loa trước và loa center cùng hãng hoặc cùng dòng để nâng cao hiệu quả âm thanh.
Loa surround thông thường dùng hai loa con (1 treble, 1 mid-bass) đặt trong thùng. Một số thùng loa surround khác lai dùng tới 4 loa và đặt chéo góc với nhau nhằm tạo ra góc toả âm lớn hơn, nâng cao hiệu quả âm thanh surround.
Loa siêu trầm (subwoofer) là “chuyên gia” về các tần số thấp trong hệ thống. Nhờ mạch lọc thấp (LFE) trong receiver hoặc lắp trong chính loa này, các tầng số thấp sẽ được đưa vào bộ công suất riêng của subwoofer để khuếch đại và phát ra các tầng số thấp phục vụ cho cả hệ thống. Những âm thanh trầm hùng, những tiếng nổ rền vang rung chuyển cả căn phòng chính là nhờ subwoofer. Tần số cắt của các hệ thống theo tiêu chuẩn THX là 80Hz, tức là các âm thanh có tầng số thấp hơn mức này sẽ được mạch lọc LFE chuyển đến loa siêu trầm.
Ngày nay, phần lớn loa siêu trầm trong dàn Home – cinema là loa điện (active), tức là loa được đánh bằng chính ampli lắp bên trong nó. Do vậy, chúng chỉ cần tín hiệu mức thấp từ receiver. Nguợc lại, các loa siêu trầm không có điện (passive) lại có đầu vào tín hiệu mức cao để đấu trực tiếp vào lối ra loa của receiver. Một chiếc loa siêu trầm tốt sẽ có một số nút chỉnh mức tần số cắt và chỉnh cường độ tiếng trầm. Các nút này có tác dụng hiệu chỉnh hoàn hảo nhất sự phối hợp giữa loa siêu trầm với các loa còn lại. Hai tiêu chuẩn quan trọng nhất về loa mà bạn cần lưu ý khi kết hợp loa với một ampli là ampli và trở kháng. Độ nhạy cho bạn biết mức thanh áp của loa (đo bằng decibel) khi loa được cung cấp ở một công suất nhất định (thường là 1W). Loa càng nhạy, càng dễ đánh và không kén ampli. Còn trở kháng là đại lượng (đo bằng Ohm) thể hiện mức độ cản trỡ dòng điện của một loa đối với ampli. Trở kháng loa càng thấp thì ampli càng khó tải. Loa có trở kháng và độ nhạy thấp có thể gây khó khăn cho nhiều receiver và ampli công suất, nhất là loại ampli không có nhiều sò đấu song song ở tầng ra
Định dạng âm thanh của CD và DVD
Vẫn còn đó những CD ngày nào một thời làm mê hoặc các fan âm nhạc. Âm thanh stereo nổi bật hơn nhờ vào kỹ thuật số hóa các tín hiệu. Xuất hiện đầu thập niên 80, nó đã nhanh chóng chinh phục người nghe trên khắp thế giới. Tuy nhiên âm thanh cho các CD và VCD bây giờ không đơn thuần chỉ 2 kênh với 44.1 Khz tần số lấy mẫu. Ngành công nghệ ghi âm đã mang đôi hài vạn dặm, đi một bước dài trong kỹ thuật định dạng âm thanh. Rất nhiều hãng đã phát minh các định dạng mới mà âm thanh nó cung cấp dù trên DVD hay CD đạt đến độ diệu kỳ.
Dolby Laboratories, một công ty chuyên về nghiên cứu và phát triển các hệ thống xử lý tín hiệu âm thanh, luôn tiên phong trong việc đưa ra các kỹ thuật và các dạng chuẩn mà tới giờ đỉnh điểm của nó là tạo ra một định dạng âm thanh 7.1 kênh tách biệt. Người nghe nhạc trước đây đã khá thích thú với kỹ thuật Dolby Surround thì nay bị chinh phục hoàn toàn bởi kỹ thuật Dolby Digital vô cùng tinh tế.
Nếu như Dolby Surround chỉ tạo cảm giác ảo với âm vòm thì Dolby Digital đã là một cú ngoạn mục khi lần đầu vào năm 1992 đã thực hiện thành công việc tái tạo âm thanh 5 kênh ( 2 kênh trước trái phải, 1 kênh giữa, 2 kênh surround) với đầy đủ các dải tần tách biệt, cộng thêm một kênh đặc trách âm siêu trầm (subwoofer). Thoạt tiên người ta chỉ biết đếm “dạng âm” này trong các rạp chiếu bóng, nhưng nay với xu hướng phục vụ giải trí gia đình, kỹ thuật đã được ứng dụng cho các DVD và trên cả các CD nhạc. Với các xuất phẩm Harry Poster hoặc Trân Châu Cảng ( Pearl Harbor) người ta sẽ nghe được tiếng rít của cây chổi thần hay tiếng đại bác gầm gừ từ xa đến gần thực hơn, hình tượng hơn.
Đối với âm nhạc, những ai thích nghe 2 kênh thì nay sẽ được thỏa mãn hơn với kỹ thuật ghi âm theo kiểu DSD (Direct Stream Digital), một công nghệ của Sony thực hiên trên SACD (Super Audio Compact Disk), ghi tín hiệu bằng phương pháp nén thiểu tổn (lossless compression) với tần số lấy mẫu đạt đến 2,8 Mhz. Đơn giản hơn thì có HDCD (High Definition Compatible Digital), một kỹ thuật mới của Microsonics, mã hoá 20 bit vào kênh 16 bit của CD truyền thống, cũng đã được áp dụng vào CD nhạc, cho một dải động dài hơn và âm thanh chi tiết hơn.
Những ai mê không khí của một buổi hòa nhạc với đầy đủ các ban bệ, thì các hãng đĩa như Chesky, ALX, nhờ ứng dụng kỹ thuật Dolby Digital 5.1, toàn bộ các âm của những nhạc cụ được phân bổ rõ ràng chi tiết nhất sẽ mang đến bạn “hương vị” bay vòng, bao phủ của âm thanh khiến bạn có cảm giác như đang ngồi trong sảnh đường của một nhà hát lớn. DTS được xem như một đối thủ đáng gờm hiện nay của Dolby Labs, sẵn sàng cạnh tranh trong các lĩnh vực từ âm nhạc, các soundtrack cho phim đến hệ thống phát thanh và các thiết bị xách tay. Về mặt cơ bản DTS cũng cho ra 5.1 kênh như Dolby Digital nhưng tốc độ truyền dữ liệu nhanh hơn (754 hoăc 1509 kbps) và độ nén ít hơn khiến nó được các nhà làm phim tỏ ra ưu ái và logo Dts được in trên các vỏ hộp như sự bải tín về mặt chất lượng âm thanh.
Nhằm đáp ứng các tiêu chí định dạng, các nhà sản xuất thiết bị điện tử cũng lao vào cuộc, phát minh ra các chip giải mã các chuẩn ấy. Một ampli hay một đầu DVD ngày nay phải tương thích tất cả các dạng chuẩn hiện có trên thế giới. SACD, DVD-A, HDCD, Dolby Prologic, Dolby Surround EX, Dolby Digital 5.1/7.1, DTS5.1,DTS-ES Matrix6.1,DTS-ES Discrete 7.1 Rồi một chuẩn khác nghiêm ngặt hơn chẳng những về âm thanh mà còn cả hình ảnh, môi trường chung quanh là THX của hãng Lucas film. Denon, một hãng chuyên sản xuất thiết bị nghe nhìn cao cấp cũng đã sửa soạn cho định dạng Blu-Ray cho sản phẩm của mình trong thời gian tới . Hãng loa Jamo của Đan Mạch lần đầu trên thế giới tung ra bộ loa D7PTX đáp ứng các tiêu chuẩn mới của THX Ultra 2 cho hệ thống Home Cinema.
Vâng, rất đa dạng, rất tinh vi và vô tận, khi mà nhu cầu thích lãm của con người ngày một cao thì chúng ta vẫn còn được chứng kiến và thưởng thức những thành quả sáng tạo không ngừng của các nhà nghiên cứu và sản xuất thiết bị âm thanh, hình ảnh.
theo: Luận ngữ âm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét