Thiên “vi chính” sách Luận Ngữ có viết “sinh, sự chi dĩ lễ; Tử, táng chi dĩ lễ; Tế, chi dĩ lễ” có nghĩa lã: Khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì theo lễ mà an táng, khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ. Từ ngàn xưa, người dân Việt ta vẫn luôn coi trọng Hiếu Lễ, chẳng thế mà cổ nhân đã đúc kết “tứ thời xuân tại thủ, bách hạnh hiếu vi tiên”(bốn mùa xuân ở đầu, trăm đức hạnh thì hiếu là trước nhất). Việc Hiếu lễ thể hiện việc cung dưỡng bố mẹ lúc tại thế và lại càng nghiêm cẩn hơn lúc họ đã khuất “sự tử như sự sinh” vậy. Còn Sách Kinh Lễ lại nói rõ: “Anh Vũ năng ngôn bất li phi điểu, tinh tinh năng ngôn bất li cầm thú. Kim nhân nhi vô lễ tuy năng ngôn bất diệc cầm thú chi tâm hồ. Phù duy cầm thú vô lễ cố phụ tử tụ ưu. Thị cố thánh nhân tác, vi lễ dĩ giáo nhân, sử nhân dĩ hữu lễ, tri tự biệt ư cầm thú” có nghĩa là: Chim Anh vũ biết nói cũng không vượt khỏi loài chim, con Tinh tinh tuy biết nói nhưng cũng vẫn là loài cầm thú. Nay người mà vô lễ tuy biết nói mà chẳng cũng có tâm như cầm thú chăng?. Phàm cầm thú vô lễ nên cha con sống thành bầy đàn tạp giao không trên dưới lễ nghĩa. Vì thế nên thánh nhân đặt ra chuẩn mực làm ra lễ để dạy người. Khiến mọi người có lễ, biết tự phân biệt mình với cầm thú. Quả thật vậy, phàm là người thì phải biết lễ và hành theo lễ vậy. Sự tử như sự sinh, biết là vậy nhưng hiện nay có nhiều người chưa hẳn đã hiểu thờ người đã khuất như thế nào cho đúng lễ. Với đạo lý uống nước nhớ nguồn nên
thờ cúng tổ tiên thành cẩn là xuất
phát từ lòng hiếu kính nhớ ân thâm nghĩa trọng, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi người ngay từ lúc còn thơ bé:
Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn,
Nước có nguồn mới bể rộng sông
sâu.
Người ta nguồn gốc từ đâu?
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết muốn đề cập đến vấn đề này, vấn đề
thờ cúng tiền nhân đã khuất, hay nói cụ thể hơn là những vấn đề liên quan đến
bàn thờ gia tiên.Tài liệu nói đến vấn đề này cũng khá nhiều, có thâm viễn và cũng có sơ sài máy móc thiếu hiểu biết. Người viết muốn mang cái sở độc, sở kiến, sở văn của mình để tổng hợp lại và kiến giải thêm một số vấn đề xung quanh bàn thờ gia tiên. Với hai phạm trù cụ thể là vật thể và phi vật thể.
Vấn đề là phải thờ phụng như thế nào và cách bài trí ra sao và tại sao lại có quan niệm này.
Trước hết ta tìm hiểu về bàn thờ và những đồ vật bài trí thờ trên bàn thờ:
Quan trọng nhất của bàn thờ là bát hương. Nó được ví như ngôi nhà để các cụ trong gia đình đi về vậy. Bát hương trên bàn thờ có nhiều cách đặt và thờ khác nhau, nhưng theo cổ lễ thì bát hương trên ban thờ thường ứng với các số lẻ. Bát hương tối kỵ dùng màu vàng thờ gia tiên vì màu vàng là màu hoàng đế chỉ dành thờ quân, thần hoặc các vị thời trước có tước vị trong hoàng tộc. Trong bát hương nên dùng tro sạch đốt từ rơm rạ thơm phủ đầy lòng bát hương. Quan trọng nhất trong bát hương là cốt bát hương: nó gồm một túi giấy nhỏ có ghi tên tuổi, năm mất, nơi mất và những câu thần chú, chỉ ngũ sắc được thầy pháp thụ lý vào và coi như sổ đỏ của người trần giới vậy.
Rồi đến thần chủ (cũng gọi là bài vị) trong nhà thờ đại tông cũng như nhà thờ tư chi là “bách thế bất dao chi chủ” nghĩa là bất di bất dịch với tính cách vĩnh cửu. Bài vị bao giờ cũng làm bằng gỗ bạch đàn trắng viết chữ lên thì rất dễ trông, lại thơm được coi là tôn quý, thích hợp với việc thờ phụng. Không có gỗ bạch đàn thì dùng gỗ cây đại hay cây táo, mít…ngày nay chẳng hiểu được vì lí do gì những thứ này không đắt không quý mà chẳng bền hơn gỗ mít, gỗ vàng tâm là hai thứ gỗ chuyên dùng làm đồ thờ (tượng Phật, Thần bao giờ cũng tạc bằng gỗ mít, vàng tâm, bền hơn tất cả các thứ gỗ khác để sơn). Tại các nhà thờ tư gia hay các bàn thờ mỗi gia đình ít khi có thờ thần chủ, chỉ những nhà có quan tước khoa bảng, nề nếp hay những nhà hào trưởng giàu có mới thờ thần chủ. Vì theo đúng cổ lễ thì thờ thần chủ phải theo lễ nghi phiền phức: phải làm nhà trạm bên cạnh huyệt, mời quan đến đấy đề chủ trước khi hạ huyệt chôn cất. Tục lệ chuộng việc mời quan to, nhất là có chân khoa bảng, đến đề chủ và một vị quan kém phẩm trật đến phủng chủ, nghĩa là bưng thần chủ đặt lên linh xa. Phải tổ chức đám rước quan cho nghi vệ, xếp đặt nơi hành lễ có quy củ, tiếp đãi quan khách trọng thể, sau khi đã tiễn đưa quan về còn phải đem lễ vật và tiền tạ ơn.
Phần nhiều nhà, thờ gia tiên, có cỗ kỷ để trong cùng. Kỷ là cái ghế ngồi, tượng trưng cho sự hiển hiện, ngự giám của người đã khuất, chiếc kỷ nhỏ, cao độ 3 phân, dài 50 phân, rộng 25 phân. Đặt ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm cầm lên trên chiếc kỷ nhỏ này. Khi mở nắp đài ra nắp kê xuống dưới, đài đặt lên trên. Đài làm bằng gỗ được tiện rỗng dưới để khi đặt lên trên nắp đài, đài sẽ ăn khớp với nắp. Ba đài này dùng đựng chén rượu nhỏ lúc cúng giỗ, còn ngày thường đài được đậy nắp để tránh bụi bặm, kỷ và khám nhà thường dân cũng như các đồ thờ cúng khác không được chạm vẽ rồng hay tứ linh mà chỉ chạm vẽ hình tượng biến hóa con vật ấy.
Bàn thờ kê kỷ và bày cỗ cúng cũng không được sơn son mà chỉ sơn then hay cánh gián thếp chỉ bạc, trừ hương án cao ở mặt tiền được sơn son thếp bạc thếp vàng
Những gia đình giàu sang thì đồ thờ bày rộng hết cả gian giữa: trong cùng là bàn cao chừng một thước 20 phân trên để khám gian không thờ bài vị thì trong khám để một cỗ ỷ trên bệ khám phía ngoài cánh cửa khám để hộp đựng bằng sắc của tiền nhân.
Phía trước kê một sập tôn cao chừng 75 phân (cao hơn sập ngồi thường), trên mặt sập phía trong để một khay đài, phía trước để hai mâm xà mặt 80 x 60 phân, một mâm để bày cỗ (đồ mặn), một mâm để xôi chè (đồ ngọt).
Trên mặt sập hai góc ngoài để hai bình sứ cao 60, 70 phân, cắm hoa. Bên ngoài cùng là chiếc hương án cao gần ngang vai, ngắn hơn sập, đứng ngoài trông thấy đủ rõ cả hai bình sứ.
Trên giữa hương án là bát hương công đồng, phía sau là chiếc mâm bồng để bày ngũ quả hoặc chiếc tam sơn để nước và hoa.
Hai bên bát hương là hai chiếc đài lớn để cơi trầu và nậm rượu. Phía ngoài đằng trước để bộ đồ tam sự hay ngũ sự, hay thất sự bằng đồng; tam sự là một cái đỉnh và hai cây cắm nến, ngũ sự thì thêm hai cây để đĩa dầu thắp đèn, thất sự thì thêm một ống hạp hương để đựng trầm với một ống cắm đôi đũa và một dụng cụ đều bằng đồng để đốt trầm. Hai cây đèn bộ đồ thất sự để hai góc trong trên hương án.
Giá đèn nến: thường bằng đồng hoặc gỗ, tốt nhất là đồng. Cây vàng khối: là vàng mã có đủ 5 màu dành cho bàn thờ gia tiên nên dùng màu xanh, đỏ, mua về bọc băng dính lại cẩn thận (băng dính trắng để thờ được lâu) và cây đặt bên trái bát hương (tính theo hướng bàn thờ) phải cao hơn cây bên phải vì: Tả Thanh Long - Hữu bạch Hổ - có câu ca rằng: Thà cho Long cao ngàn trượng chứ không để hổ ngẩng cao đầu.
Lọ lộc bình: Thường thờ 1 lọ để cắm hoa vào ngày mùng 1 và rằm, ngày thường để không, nên xưa gọi là Độc bình. Nay người hiện đại mua 2 lọ thờ đối xứng là không đúng, 02 lọ mua chỉ để chơi trong nhà ko được đặt lên ban thờ. Lọ lộc bình thường đặt bên tay trái - hướng đông - theo quan niệm: đông bình tây quả.
Khay cốc đựng nước thờ: nước thanh tịnh được thay vào mỗi lần thắp hương: nén nhang chén nước.
Lọ đựng hương: đặt bên phải bàn thờ, làm bằng gốm...
Tùy theo kinh tế của gia chủ mà có những vật thờ khác nhau nhưng nhất thiết trên ban thờ phải đảm bảo 05 yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
Giá nến tượng trưng cho kim.
Bàn thờ, ngai hoặc giá nến, bài vị tượng trưng cho mộc
Rượu, chai nước, chén nước thờ tượng trưng cho thủy.
Ngọn đèn dầu hoặc nến thờ trên ban thờ và là hương khi thắp lên tượng trưng cho hỏa.
Còn bát hương làm từ đất sét nung lên, hay sành sứ có nghĩa là thổ.
Kỷ, khám, hộp sắc, khay đài, mâm xà, hương án, hoành phi câu đối... đều làm bằng gỗ vàng tâm hay gỗ mít. Hai thứ gỗ vàng tâm hay gỗ mít thích hợp với sơn ta lại có hương thơm khá giống hương trầm.
Kích thước bàn thờ:
Bàn thờ không phải thích đặt kích thước bao nhiêu thì đặt mà phải tùy vào gia chủ định chọn chữ gì để đặt cho bàn thờ nhà mình, nhưng phải theo sách xưa là kích thước mặt bàn thờ và vị trí đáy bàn thờ xuống đến đất phải theo kích thước Lỗ Ban. Trên thước Lỗ Ban có các kích thước rộng hẹp khác nhau tương ứng với những cung chữ trên đó như: Linh, sinh khí, phúc, an ấm hay họa hại, ngũ quỷ, lục sát...tất nhiên phải chọn cung cát như. Phúc lộc, gia đinh, tài vượng, sinh khí, thiên y thì con cháu sẽ hưởng
Về vị trí đặt bàn thờ:
Với người Việt, trong mỗi khuôn viên bao giờ cũng có một ngôi nhà chính dùng vào việc quan trọng nhất là thờ phụng, chính phía trong của gian giữa bao giờ cũng được dành làm nơi thờ, đây là trung tâm của nội thất, chỗ trang trọng nhất, các sinh hoạt khác có diễn ra ở gian bên cũng đều hướng về đấy. Bàn thờ Tổ tiên của người Việt cũng đa phần hướng Nam, hàm ý con cháu tôn vinh Tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ (Bậc thánh nhân ngồi ngoảnh mặt hướng Nam mà nghe thiên hạ tâu bày), và theo đạo Phật thì hướng nam là nơi của Bát Nhã, tức là trí tuệ, hướng của sự sáng tạo, của sinh lực tràn trề, đầy dương khí. Tuy nhiên, cũng có quan điểm đặt bàn thờ hướng tây vì cho rằng hướng này hợp với sự đối đãi của âm dương, nên yên ổn và phát triển, nghĩa là vị thần được an tọa . Nhưng trong thời điểm hiện nay, cũng tùy theo vị trí ngôi nhà, tuổi gia chủ mà ta có thể đặt bàn thờ theo những cách khác nhau và hướng khác nhau nhưng có nguyên tắc chung là: Tả cầu tài - hữu bản mạnh tức là đặt bên trái để cầu tài và bên phải thờ bản mạnh, hiểu rộng ra là đối với các tín chủ thờ đức thần tài thì nên đặt ban thời bên trái tính theo hướng của ngôi nhà chứ không phải tính từ cửa đi vào. Cũng từ quan điểm này thì bàn thờ gia tiên không nhất thiết phải quay theo hướng nhà mà gia chủ có thể tự đặt hoặc nhờ thầy phong thủy đặt.
Nhưng phải nhất nhất theo nhưng nguyên tắc chung:
Thứ nhất: Không được lộ thiên, tức là phía trên, phía sau bàn thờ có cửa sổ hoặc cửa chính đi hoặc trên nóc bàn thờ có ống thông gió.
Thứ nữa, bàn thờ tối kị để các vật nặng như đầu dư nhà hay các vật sắc nhọn như: góc tủ, góc cánh cửa chọc thẳng vào mặt bàn thờ hoặc đầu hồi của nhà hàng xóm chĩa vào.
Phải tránh những nơi bẩn tạp như nhà tắm, nhà vệ sinh, hay giường ngủ của vợ chồng. Nếu tầng dưới đặt bàn thờ thì tầng trên cũng không được đặt bếp hoặc phòng ngủ, nhà tắm nhà vệ sinh.
Về chất liệu gỗ làm bàn thờ:
Như đã nói qua ở trên: Bàn thờ đựơc sử dụng chủ yếu là gỗ Mít, Vàng Tâm, Thị, hay Dổi. Nhiều nhất vẫn là gỗ Mít, Vàng tâm:
Theo tiền lệ của người Việt ta từ lâu năm, được các nghệ nhân ở những làng nghề lâu đời nhất của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc mà tiêu biểu nhất là ở Hà Tây, Bắc Ninh cho rằng:
Như đã nói qua ở trên: Bàn thờ đựơc sử dụng chủ yếu là gỗ Mít, Vàng Tâm, Thị, hay Dổi. Nhiều nhất vẫn là gỗ Mít, Vàng tâm:
Theo như Nghệ nhân Nguyễn Huy Lương ở làng nghề cổ truyền Vũ Lăng - Dân Hoà - Thanh Oai - Hà Nội kể lại truyền thuyết thì có những câu chuyện như ông Đa - bà Mít mang ý nghĩa tâm linh, nhưng trên thực tế thì cũng phải căn cứ vào tính chất gỗ của nó: gỗ Mít dễ tìm, và cây mít ở nước ta gần như vùng miền nông thôn nào cũng có trồng tương đối lớn, bàn thờ ở quê gần như gia đình nào cũng có, tất nhiên đa số dân ta vẫn khó khăn nên dùng những loại cây có sẵn lại đủ lớn để dùng. Dễ chạm khắc, lại nhẹ dễ treo hay ít cong vênh và không bị mối mọt. Mít và vàng tâm thì mùi thơm nhẹ, hương của nó cũng có phần nào đó gần mùi trầm, mùi hương nên nó cũng phù hợp với việc dùng làm bàn thờ.
Đồng quan điểm trên, anh Nguyễn Đức Thuỷ - chủ cơ sở một làng nghề truyền thống ở xóm Thượng - Sơn Đồng - Hoài Đức - Hà Nội cũng cho biết: theo các cụ Nghệ nhân truyền lại xưa nay thì bàn thờ thường làm bằng các loại gỗ mít, dổi, vàng tâm. Vàng tâm thì đựơc màu vàng đẹp, mùi hương nhẹ. Còn dổi thì nhẹ nên dễ vận chuyển, dễ treo. Ưu điểm nhất vẫn là gỗ mít vì: thứ nhất gỗ mít nhiều, dễ chạm khắc, lại ít bị cong vênh trong khi độ bền có thể đên trên dưới 200 năm. Gỗ mít lại có màu vàng sang, khi để lâu có màu sẫm đỏ, gỗ có mùi thơm nhẹ, gỗ nhẹ lại mềm dẻo, có tính chất cơ lí khá ổn định, không mối mọt, ít cong vênh mà mặt gỗ lại mịn…bàn thờ cổ và đúng thường được đóng bằng gỗ sạch nguyên tấm, tránh ghép 2 mảnh làm 1 vì đây là điều tối kị..
Bên cạnh đó cũng có người làm bằng táu vì cho rằng nó có tính chắc chắn, vĩnh viễn, hay là dùng gỗ gụ nhưng vẫn không phổ biến bằng gỗ các loại gỗ dổi, vàng tâm và mít mà nhất là mít. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt từ xưa đến nay.
Đại Đức Thích Tiến Thịnh (Trụ trì chùa Vũ Lăng - Dân Hòa- Thanh Oai - Hà Nội) cũng đưa ra những quan điểm cơ lý của những thứ gỗ phổ dụng làm bàn thờ là mít hay vàng tâm có tính bền, dẻo, gỗ lại có vân giống mây và màu vàng linh thiêng, còn thêm sơn thiếp vàng là thể hiện ánh hào quang của Đức Phật, mang tính trang nghiêm lộng lẫy. Khi nói về kích thước, Đại đức cho rằng việc chọn kích thước thì tuỳ theo không gian cũng như ý thích của từng người, có thể căn cứ vào thước lỗ ban cung cát hay không thì nó chỉ mang tính chất quan niệm mà thôi, kể cả hoa văn trên bàn thờ có thể chạm khắc tứ linh, có quan niệm dòng dõi quý tộc thì chạm trổ rồng, còn nhà dân thường thì chạm phượng thôi. Nhưng đó chỉ là quan điểm, còn thực tế người ta vẫn làm theo ý thích là nhiều vì nhiều nguyên nhân.
Còn Nhà nghiên cứu Văn hóa Dân gian Nguyễn Hùng Vĩ (giảng viên bộ môn văn học Dân gian trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội), người đã nhiều năm nghiên cứu về Văn hóa Dân gian lại kiến giải một cách sâu sắc và khoa học hơn: ngoài những vấn đề về tính cơ lí của gỗ trên, nhà nghiên cứu còn cho biết thêm về nguyên do mang tính chất phi vật thể.
“Cùng với vàng tâm, mít có màu vàng, là màu của nhà Phật, nên được các nhà Phật dung tạc tượng, cũng như nhà phong thuỷ dùng cho những đồ vật linh thiêng, trang nghiêm như bàn thờ. Tiếng Phạn Balamật, viết giản ước chữ Mật đọc là Mít, cụ Lê Quý Đôn cũng đã từng nói đến vấn đề này trong một số tác phẩm của mình. Cây mít vốn có nguồn gốc từ Ấn Độ, theo các nhà sư trong quá trính truyền giáo, hay việc có thể dùng toàn phần cây mít như hạt làm tinh bột, múi chin thay đường, quả non thay rau ăn chay được, than dùng làm mõ ống vì ít nứt, tiếng vang ấm.
Bên cạnh đó cũng có người làm bằng táu vì cho rằng nó có tính chắc chắn, vĩnh viễn, hay là dùng gỗ gụ nhưng vẫn không phổ biến bằng gỗ các loại gỗ dổi, vàng tâm và mít mà nhất là mít. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt từ xưa đến nay…”
Hiện nay, do nhu cầu thị trường cũng như khả năng tài chính mà vấn đề chất liệu gỗ cũng như chất liệu màu sắc sơn son càng đơn giản, càng tiết kiệm càng tốt. Chẳng hạn như gỗ dùng gỗ dổi hay gỗ xoan, hay tận dụng gỗ tấm rời để ghép lại thành bàn thờ dù biết rằng đó là kiêng kị. Sơn có thể dùng sơn ta, sơn kém chất lượng..
Đối với những ngôi nhà lớn bàn thờ thường xây rồi lát bằng gạch hoặc ốp đá nhưng bàn thờ cổ và đúng thường được đóng bằng gỗ sạch nguyên tấm, tránh ghép 2 mảnh làm 1 vì đây là điều tối kị..
Bàn thờ gia tiên hay bất kì bàn thờ nào cũng vậy tùy những điều kiện và thời kì khác nhau thì giá trị vật chất của những vật thờ khác nhau nhưng một bàn thờ đúng luôn phải tuân thủ những quy định trên. Đó là một bộ phận trong không gian gia đình, nó tham gia vào nội thất với tính chất trang nghiêm, tôn kính và thẩm mỹ. Mỗi gia đình tuỳ không gian cho phép, tuỳ tương quan với tiện nghi sinh hoạt khác có thể làm những bàn thờ thích hợp và đồ tế khí phù hợp, làm sao cái đẹp ở đây phải đảm bảo văn hóa cả chiều sâu tâm linh và mặt bằng mỹ thuật.
Bàn thờ ấy luôn gợi lên một chiều sâu tâm linh “cây có gốc, nước có nguồn” vừa nhân bản vừa vun đắp truyền thống, đồng thời là niềm tự hào của gia chủ về tổ tiên và về cách dạy con cháu.
Th.s Hán Nôm Nguyễn Đức
Bá biên soạn